Là một rối loạn hiếm gặp gây suy nhược và đau cơ bắp. Chưa rõ nguyên nhân gây bệnh, nhưng có thể liên quan đến tình trạng hệ thống miễn dịch hoạt động quá mức và tấn công các cơ bắp, gây viêm sợi cơ. Các cơ bắp ở đùi thường bị ảnh hưởng đầu tiên. Bệnh có thể trở nên nghiêm trọng, gây khó thở, rối loạn nhịp tim, suy tim, khó nuốt. Bệnh thường ảnh hưởng đến những người trong độ tuổi từ 30 đến 60, một số bệnh nhân có thể mắc các bệnh tự miễn khác như lupus.
Các triệu chứng có thể dần dần hoặc nhanh chóng khởi phát, và có thể tăng giảm theo thời gian. Bệnh nhân cảm thấy yếu cơ, mệt mỏi, đau đớn, khó nuốt, tim đập nhanh, khó thở.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm nồng độ creatine kinase (CK) trong máu, chụp cộng hưởng từ (MRI). Xét nghiệm đánh giá cơ bắp như điện cơ đồ (EMG). Sinh thiết cơ. Xét nghiệm tìm kháng thể đặc biệt. Xét nghiệm công thức máu toàn bộ (CBC), bảng chuyển hóa toàn diện (CMP). Các xét nghiệm bổ sung có thể được yêu cầu.
Điều trị phụ thuộc vào mức độ của các triệu chứng. Bệnh nhân được khuyến khích tập thể dục và sử dụng vật lý trị liệu để giảm độ cứng và cải thiện tính di động của cơ bắp. Các thuốc giảm viêm được sử dụng gồm steroid và các thuốc ức chế miễn dịch. Tiêm tĩnh mạch thuốc immunoglobulin.
Viêm đa cơ là một bệnh hiếm gặp gây viêm ở nhiều cơ. Đây là một dạng bệnh mô liên kết. Đặc điểm đáng chú ý nhất của bệnh là yếu cơ, nhất là những cơ gần thân người nhất, như cơ vùng bả vai và khớp háng.
Chưa rõ nguyên nhân chính xác gây bệnh. Nhiễm trùng do vi khuẩn, ký sinh trùng hoặc virut có thể gây viêm đa cơ, nhưng trong phần lớn các trường hợp không thể xác định được nguyên nhân gây bệnh.Có giả thuyết cho rằng viêm đa cơ là một bệnh tự miễn, vì một lý do nào đó hệ miễn dịch của cơ thể sản sinh ra kháng thể tấn công và làm tổn thương mô cơ khỏe mạnh.
Nhiều người bị viêm đa cơ có nồng độ tự kháng thể cao trong máu. Tuy nhiên chưa rõ liệu những tự kháng thể này có thực sự gây viêm đa cơ hay không.
3 xét nghiệm cơ bản bao gồm
Bệnh có tiên lượng tốt. Điều trị càng sớm thì phục hồi càng tốt. Khoảng 1/2 số bệnh nhân sẽ phục hồi hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn. Có một số có di chứng yếu cơ vùng vai hoặc háng. Chỉ có một số ít tử vong do biến chứng tim - phổi.