Tuyến giáp là tuyến nằm ở mặt trước của cổ, ngay dưới "quả táo Adam". Tuyến giáp sản xuất hormone điều hòa huyết áp, nhịp tim và nhiệt độ cơ thể. Có nhiều loại ung thư tuyến giáp, tùy thuộc vào loại tế bào ung thư, bao gồm: ung thư tuyến giáp dạng nhú, ung thư tuyến giáp thể nang, ung thư tuyến giáp thể tuỷ, ung thư tuyến giáp không biệt hoá, và lympho tuyến giáp. Ung thư tuyến giáp rất hiếm gặp, có thể xảy ra ở những bệnh nhân tiếp xúc với bức xạ liều lượng lớn hoặc có tiền sử gia đình bị phì đại tuyến giáp (bướu cổ).
Ở giai đoạn đầu bệnh thường không có triệu chứng. Khi khối u phát triển, bệnh nhân có thể cảm nhận thấy khối u ở phía trước cổ, u trong cổ họng, khàn giọng, sưng hạch bạch huyết, khó nuốt, khó thở, đau cổ, đau họng.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Các xét nghiệm để chẩn đoán bệnh bao gồm: xét nghiệm máu, siêu âm, quét tuyến giáp bằng hạt nhân phóng xạ, sinh thiết tuyến giáp. Xét nghiệm chức năng tuyến giáp.
Điều trị phụ thuộc vào loại ung thư và mức độ của bệnh. Hầu hết bệnh nhân sẽ phải phẫu thuật. Phương pháp điều trị khác có thể bao gồm hóa trị, iốt phóng xạ và bức xạ. Hầu hết bệnh nhân phải dùng thuốc thay thế tuyến giáp sau khi điều trị ung thư trong suốt cuộc đời.
Ung thư tuyến giáp chiếm khoảng 1% các loại ung thư. Nó là ung thư tuyến nội tiết thường gặp nhất. Đa số ung thư tuyến giáp là ung thư biểu mô biệt hoá cao, tiến triển âm thầm, giai đoạn ẩn bệnh kéo dài, điều trị chính yếu là phẫu thuật. Đa số bệnh nhân ung thư tuyến giáp có tiên lượng tốt nếu được chẩn đoán và điều trị sớm và tích cực.
Có 4 dạng ung thư tuyến giáp chính là: dạng nhú, dạng nang, dạng tuỷ và dạng không biệt hóa. Các bác sĩ có thể gọi tên dạng ung thư theo týp tế bào quan sát được trên kính hiển vi hoặc theo kiểu phát triển của khối u.
Ung thư tuyến giáp thường không có triệu chứng rõ ràng ngay từ ban đầu khi bệnh mới xuất hiện. Vì vậy, người bệnh sẽ rất khó nhận biết. Trong một số ít trường hợp, ung thư tuyến giáp có các triệu chứng đầu tiên là khối u thứ cấp trong xương hoặc phổi sau khi ung thư đã lan tràn ra ngoài tuyến giáp.
Đại đa số ung thư tuyến giáp đều tiến triển âm thầm, chậm chạp và kéo dài nên bệnh nhân thường không nhận thấy được ngay những thay đổi của toàn thân, vẫn lao động và sinh hoạt bình thường cho đến khi xuất hiện những rối loạn tại chỗ do u chèn ép, xâm ấn (dây khó thở và không ăn uống được), khối u hoại tử, bội nhiễm và loét thì tình trạng toàn thân mới sa sút nặng.
Vì không có triệu chứng đặc trưng rõ ràng nên việc phòng ngừa ung thư tuyến giáp là tương đối khó. Nếu muốn biết mình có nguy cơ cao bị các loại ung thư tuyến giáp có tính di truyền, bạn nên đi làm xét nghiệm máu. Những người nào được phát hiện có nguy cơ bị ung thư, có thể cần phải cắt bỏ tuyến giáp để phòng ung thư dù là chưa có triệu chứng gì cả.
Việc theo dõi định kỳ sau điều trị ung thư tuyến giáp là rất quan trọng. Theo dõi bao gồm khám lâm sàng toàn thân, chụp Xquang, chụp xạ hình, xét nghiệm máu định kỳ. Tìm hiểu dấu hiệu ung thư tuyến giáp, các triệu chứng ung thư tuyến giáp điều trị hiệu quả nhất.
Mặc dù đã điều trị, bệnh ung thư tuyến giáp có thể trở lại, ngay cả khi đã loại bỏ tuyến giáp. Điều này có thể xảy ra nếu các tế bào ung thư lan ra ngoài tuyến giáp trước khi nó loại bỏ. Lựa chọn điều trị ung thư tuyến giáp phụ thuộc vào loại và giai đoạn của ung thư tuyến giáp, sức khỏe tổng thể và sở thích.
Các loại ung thư tuyến giáp sẽ quyết định cách điều trị. Ung thư tuyến giáp dạng nhú (ung thư biểu mô nhú) thường gặp nhất, chiếm đến 80% các ung thư. Ung thư tuyến giáp dạng nang (ung thư biểu mô nang) chiếm khoảng 15%. Dạng nhú và dạng nang gộp lại gọi là ung thư biệt hóa, chiếm khoảng 90-95%, ở nữ có tỷ lệ mắc cao gấp 3-4 lần nam giới. Phần lớn gặp ở người từ 45 tuổi trở xuống. Ít ai biết đây là loại ung thư dễ trị khỏi, dĩ nhiên phải được điều trị đúng cách. Các loại hiếm gặp gồm ung thư giáp dạng tủy, có thể di truyền và ung thư giáp không biệt hóa, ác tính cao rất khó trị.
Phẫu thuật là phương thức chữa trị ung thư tuyến giáp phổ biến nhất đối với loại còn chưa lan sang các phần khác của cơ thể.
Điều trị tại chỗ bằng I-131 với ung thư tuyến giáp dạng nang hoặc nhú (với liều lớn hơn so với liều dùng để chụp tuyến giáp). I-ốt được bệnh nhân uống vào sẽ giúp điều trị tập trung tại các tế bào ung thư tuyến giáp còn sót lại trong cơ thể sau phẫu thuật. Bằng cách huỷ hoại những tế bào ung thư này, i-ốt phóng xạ giúp phòng chống bệnh tái phát trở lại. Các bệnh nhân phải nằm viện trong một vài ngày trong khi hoạt tính phóng xạ còn cao nhất. Liệu trình điều trị ung thư tuyến giáp có thể được lặp lại sau đó. Các hoóc-môn thường được dùng cho các bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp hoặc đã điều trị bằng i-ốt phóng xạ.
Các hoóc-môn thay thế cho những loại được ung thư tuyến giáp sản xuất trong điều kiện bình thường. Việc chữa trị ung thư tuyến giáp này cũng làm giảm sự tăng trưởng của các tế bào ung thư tuyến còn sót lại trong cơ thể. Bác sĩ có thể cần phải tiến hành một số xét nghiệm theo dõi để xem bệnh nhân đã có một lượng phù hợp các hoóc-môn cần thiết hay chưa. Phẫu thuật không được chỉ định cho các bệnh nhân bị ung thư tuyến giáp đã lan rộng. Việc điều trị thông thường bao gồm phương pháp chữa trị hệ thống (diệt tế bào ung thư hoặc làm chậm sự tăng trưởng của các tế bào ung thư tuyến giáp trong toàn cơ thể), chẳng hạn như hóa trị liệu, i-ốt phóng xạ trị liệu hoặc hoóc-môn trị liệu.
Xạ trị ngoài được dùng điều trị ung thư di căn xương và ung thư tuyến giáp loại không biệt hóa. Hóa trị chỉ được dùng khi các phương pháp khác không hiệu quả.Các biến chứng: Mặc dù đã mổ tuyến giáp, nhưng ung thư có thể tái phát nhiều chục năm sau, dưới dạng các hạch cổ, các cục nhỏ ở nơi mô giáp còn sót hoặc di căn ở phổi hoặc xương. Nên biết rằng ung thư tuyến giáp tái phát hoặc di căn có thể trị tốt.