Là bệnh ung thư mô tạo máu, (bao gồm hệ thống bạch huyết tủy xương) đặc trưng bởi sự quá sản các tế bào máu trắng. Bệnh gồm nhiều loại: bệnh bạch cầu cấp tính lymphocytic (ALL), bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML), bệnh bạch cầu lymphocytic mạn tính (CLL), bệnh bạch cầu tủy xương mạn tính (CML) và bệnh bạch cầu tế bào lông. Mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc vào loại tế bào và hình thức cấp tính hay mạn tính.
Một số người không có triệu chứng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của bệnh. Triệu chứng thường gặp bao gồm: đau xương, chảy máu nướu răng, dễ bầm tím, mệt mỏi, nhiễm trùng thường xuyên, sốt, ớn lạnh, phát ban, giảm cân không rõ nguyên nhân, hạch bạch huyết sưng, khó thở.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm máu để đếm số lượng tế bào máu trắng. Sinh thiết tủy xương để thiết lập chẩn đoán. Xét nghiệm công thức máu toàn bộ (CBC), bảng chuyển hóa toàn diện (CMP). Chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), chụp cộng hưởng từ (MRI), chụp X-quang.
Điều trị tùy thuộc vào loại bệnh bạch cầu nhưng có thể bao gồm: hóa trị, xạ trị và / hoặc cấy ghép tủy xương.
Căn bệnh này là hiện tượng tế bào bạch cầu trong trong cơ thể người tăng đột biến. Do đó, bệnh còn có tên là bệnh bạch cầu ( bệnh máu trắng)
Bạch cầu trong cơ thể vốn đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ cơ thể khi, loại tế bào này bị tăng số lượng một cách đột biến sẽ phát triển lấn át các loại tế bào máu khác như hồng cầu, tiểu cầu. Đây cũng là căn bệnh ung thư duy nhất không tạo ra u (ung bướu).
Một nghiên cứu do TS. Marilyn Kwan chủ trì tiến hành tại Viện Đại học California, bang Berkeley (Mỹ) cho thấy: Những trẻ dưới 2 tuổi, nếu được cho ăn cam và chuối nhiều ngày trong tuần sẽ giảm được nguy cơ bị bệnh ung thư máu (còn gọi là bệnh bạch cầu) hơn 2 lần so với những trẻ khác trong giai đoạn phát triển cho đến 14 tuổi. Kết quả cũng tương tự đối với những trẻ thường xuyên được cho uống nước cam vắt.
Ung thư máu là một dạng ung thư thường gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi. Ở Pháp, trung bình cứ 100.000 trẻ thì có 4 trẻ mắc bệnh này. Khi bị ung thư máu, bạch cầu sẽ tăng trưởng bất thường trong tủy xương, và sự tăng trưởng thái quá này làm rối loạn chức năng của một số cơ quan. Tuy nhiên, tác dụng của thức ăn đối với sự phát triển của bệnh hiện vẫn còn chưa rõ.
Theo TS. Kwan, kết quả trên có thể là do trong trái cây chứa rất nhiều vitamin, đặc biệt là vitamin C.
Có thể phối hợp nhiều biện pháp điều trị. Sự lựa chọn biện pháp điều trị tùy thuộc chủ yếu vào thể bệnh, tuổi của người bệnh, sự xuất hiện tế bào bạch cầu trong tủy.
Hiện tại các phương pháp điều trị bệnh ung thư máu chủ yếu vẫn là thay tủy xương để thay thế phần tủy xương đã bị hư hỏng và kích thích sinh ra hồng cầu cũng như kìm hãm sự gia tăng đột biến của bạch cầu. Tuy nhiên, dù có điều trị bằng phương pháp nào thì khả năng thành công cũng rất thấp, chỉ khoảng 10% và dù cho có thành công thì khả năng bệnh tái phát cũng rất lớn (khoảng từ 3 đến 5 năm).
Hiện nay ngoài cách ghép tủy (cuống rốn, cấy tế bào gốc....) còn có thể dùng hóa trị liệu, cho tới nay cách dùng hóa trị vẫn có triển vọng rất tốt cho các bệnh nhân. Ngoài ra, đối với dòng lympho còn có thể xạ trị màng não, ngăn ngừa tế bào phát triển lên não.
Đối với những bệnh nhân có quá trình điều trị bệnh tốt, sức đề kháng tốt, thích nghi với môi trường tốt và nằm trong khoảng thời gian điều trị từ 3-5 năm có thể bình phục hoàn toàn.
Các bệnh nhân bị bạch cầu cấp tính cần được điều trị ngay với mục đích giảm các triệu chứng của bệnh để đạt hiệu quả lui bệnh.
Với bệnh bạch cầu mạn tính không có triệu chứng, điều trị có thể được trì hoãn với sự theo dõi của các bác sĩ và tiến hành điều trị khi các triệu chứng xảy ra. Điều trị giúp kiểm soát bệnh và các triệu chứng.