Bàng quang là cơ quan nằm trong khung chậu, có chức năng chứa nước tiểu. Ung thư bàng quang phát sinh từ sự phát triển bất thường của các tế bào lót mặt trong bàng quang. Bệnh phổ biến ở những bệnh nhân nam lớn tuổi. May mắn là phần lớn các trường hợp được phát hiện và điều trị trước khi bệnh chuyển sang giai đoạn di căn. Tuy nhiên, bệnh dễ tái phát, bệnh nhân sau chữa trị cần được kiểm tra định kỳ trong suốt cuộc đời.
Đau bụng, nước tiểu có máu, bí tiểu, mệt mỏi.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Các xét nghiệm bổ sung bao gồm: phân tích nước tiểu (UA), tế bào học nước tiểu, nội soi bàng quang, sinh thiết bàng quang và chụp cắt lớp vi tính (CT scan).
Điều trị bao gồm: phẫu thuật, hóa trị và / hoặc liệu pháp miễn dịch.
Nước tiểu từ thận được dẫn vào bàng quang thông qua một ống gọi là niệu quản. Lớp phía ngoài của thành bàng quang là một lớp cơ, khi bàng quang đầy nước tiểu lớp cơ này sẽ co bóp để tống nước tiểu ra ngoài qua một ống nhỏ khác gọi là niệu đạo.
Lớp niêm mạc phía trong của thành bàng quang được tạo thành từ các tế bào chuyển tiếp và tế bào vảy. Trên 90% ung thư xuất phát từ tế bào chuyển tiếp còn gọi là ung thư biểu mô chuyển tiếp. Còn lại có khoảng 8% là ung thư biểu mô vảy.
Những ung thư còn khu trú ở niêm mạc bàng quang thì được gọi là ung thư bề mặt bàng quang, các Bác sĩ còn gọi là ung thư tại chỗ. Loại này thường tái phát sau phẫu thuật. Các tế bào ung thư ban đầu ở bề mặt bàng quang sau đó chúng sẽ phát triển đến lớp cơ của bàng quang. Hiện tượng này gọi là sự xâm lấn của ung thư, sự xâm lấn này có thể vượt ra ngoài thành bàng quang vào các cơ quan lân cận như tử cung, âm đạo (ở phụ nữ) hoặc tuyến tiền liệt (ở nam giới) và nó cũng có thể tới thành bụng.
Khi ung thư xâm lấn qua thành bàng quang, các tế bào ung thư có thể được tìm thấy ở các hạch lymphô gần đó, và tại thời điểm này các tế bào ung thư có thể đã lan tới các hạch lymphô khác hoặc các cơ quan như phổi, gan, xương. Khi ung thư di căn từ cơ quan nguyên phát tới các cơ quan khác của cơ thể thì khối u mới được hình thành có cùng bản chất và tên gọi với khối u ở cơ quan nguyên phát. Ví dụ, nếu ung thư bàng quang lan tới phổi thì các tế bào ung thư ở phổi thực chất là các tế bào ung thư bàng quang chứ không phải là các tế bào ung thư phổi và việc điều trị cần được áp dụng như đối với ung thư bàng quang chứ không phải như ung thư phổi.
Bàng quang là một tổ chức cơ, có hình quả bóng ở trong khung chậu. Nó chứa nước tiểu mà thận của bạn sản xuất trong suốt quá trình lọc máu. Giống một quả bóng, bàng quang của bạn có thể lớn hơn hoặc nhỏ đi phụ thuộc vào lượng nước tiểu mà nó chứa đựng. Nước tiểu từ thận xuống bàng quang qua một ống nhỏ được gọi là niệu quản, và được bài tiết ra ngoài cơ thể qua một ống hẹp khác, gọi là niệu đạo.
Những tế bào khỏe mạnh phát triển và phân chia theo trật tự. Quá trình này được kiểm soát bằng ADN - vật chất di truyền chứa đựng sự chỉ dẫn cho tất cả các quá trình hóa học trong cơ thể. Khi ADN bị tổn thương, có những thay đổi trong thông tin di truyền. Kết quả là những tế bào phát triển không kiểm soát được và thậm chí hình thành khối u, một khối các tế bào ác tính.
Hầu hết ung thư bàng quang bắt đầu từ các tế bào đặc biệt ở bề mặt của thành bàng quang (tế bào chuyển tiếp). Những tế bào tương tự cũng gặp ở thận, niệu quản và niệu đạo, nơi chúng cũng có thể phát triển thành u ác tính. Một vài ung thư vẫn còn khu trú ở bề mặt của bàng quang (ung thư biểu mô tại chỗ). Những ung thư khác đã xâm lấn, phát triển vào trong hoặc qua thành của bàng quang, và thậm chí vào hạch bạch huyết xung quanh và các cơ quan kế cận. Khi đó, ung thư cũng có thể di căn tới các cơ quan khác, bao gồm phổi, gan hoặc xương.
Những nguyên nhân tổn thương ADN dẫn đến ung thư bàng quang chưa hoàn toàn rõ ràng. Một vài trường hợp có biến đổi di truyền - ung thư bàng quang di truyền trong gia đình.
Thường gặp hơn là những đột biến gây ung thư bàng quang phát triển trong suốt đời sống con người. Tổn thương ADN xảy ra tùy thuộc vào sự phơi nhiễm với các chất độc hóa học nhất định, như những chất được tìm thấy trong khói thuốc lá.
Mặt khác, những yếu tố di truyền như cách cơ thể chuyển hóa các chất hóa học nhất định có thể giữ một vai trò nào đó. Nhiều người có cơ thể chuyển hóa những chất độc hóa học nhanh ít mắc ung thư bàng quang hơn những người chuyển hóa các chất hóa học tương tự chậm hơn.
Tất cả những người có các triệu chứng này nên đến gặp bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị các vấn đề bất thường một cách sớm nhất. Những người có các triệu chứng này có thể gặp bác sĩ gia đình hoặc một bác sĩ chuyên khoa tiết niệu.
Mặc dù ung thư bàng quang thường không phòng tránh được, bạn có thể thực hiện một số cách để giúp làm giảm nguy cơ.
Đây là một phương pháp điều trị ung thư bàng quang phổ biến. Loại phẫu thuật phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn và cấp độ của khối u. Bác sĩ có thể giải thích từng loại phẫu thuật và thảo luận để tìm ra phương pháp điều trị phù hợp nhất cho bệnh nhân.
Một số lượng nhỏ bệnh nhân có thể được chiếu xạ trước khi phẫu thuật để làm co khối u. Một số bệnh nhân khác có thể được chiếu xạ sau khi phẫu thuật để tiêu diệt nốt các tế bào ung thư còn sót lại trong khu vực. Đôi khi, bệnh nhân có thể được điều trị bằng tia phóng xạ khi không còn khả năng phẫu thuật.