Bệnh trào ngược dạ dày - thực quản là tình trạng trào ngược từng lúc hay thường xuyên của dịch dạ dày lên thực quản. Tính chất kích thích của các chất dịch trong dạ dày như HCl, pepsine, dịch mật… đối với niêm mạc thực quản, sẽ gây ra các triệu chứng và biến chứng.Các điều kiện sau đây làm tăng nguy cơ của trào ngược dạ dày -thực quản: uống rượu, béo phì, hút thuốc lá, mang thai, bệnh tiểu đường, và xơ cứng bì.
Cảm giác nóng rát trong họng và ngực, ợ nóng, vị đắng trong miệng, đau rát ở ngực, trào ngược thức ăn vào cổ họng, buồn nôn, ho mãn tính, khàn giọng.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Các xét nghiệm có thể được thực hiện để loại trừ các nguyên nhân khác của triệu chứng. Nội soi đường tiêu hóa trên có thể được thực hiện để xem xét nguyên nhân kích thích thực quản.Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), xét nghiệm vi khuẩn H. Pylori. Có thể bổ sung: xét nghiệm D-dimer, điện tâm đồ (EKG), xét nghiệm Tronopin, nội soi đường tiêu hóa trên (EGD), chụp x-quang.
Bệnh nhân nên tránh hút thuốc, uống rượu hay cà phê hoặc nằm ngay sau khi ăn. Điều trị tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh và bao gồm: thuốc ức chế bơm proton (omeprazole / Prilosec, pantoprazole / Protonix), thuốc chẹn H2 (cimetidine / Tagamet, ranitidine / Zantac), thuốc kháng acid, thuốc điều hòa vận động (metoclopramide / REGLAN). Phẫu thuật có thể được khuyến khích cho các triệu chứng nghiêm trọng và dai dẳng.
Bệnh trào ngược dạ dày - thực quản đã được y văn đề cập đến từ vài chục năm nay, nhưng ở Việt Nam, bệnh này chỉ mới được lưu ý từ vài năm trở lại đây. Một trong các nguyên nhân làm cho bệnh trào ngược dạ dày - thực quản chưa được quan tâm đúng mức ở nước ta do triệu chứng quan trọng nhất của bệnh này chưa được tầm soát kỹ, trong khi các triệu chứng khác lại rất dễ bị nhầm lẫn và thường được quy cho các bệnh khác như viêm loét dạ dày - tá tràng, viêm thanh quản, viêm mũi xoang…
Vậy bệnh trào ngược dạ dày - thực quản là gì? Đó là tình trạng trào ngược từng lúc hay thường xuyên của dịch dạ dày lên thực quản. Tính chất kích thích của các chất dịch trong dạ dày như HCl, pepsine, dịch mật… đối với niêm mạc thực quản, sẽ gây ra các triệu chứng và biến chứng.
Bệnh trào ngược dạ dày - thực quản khá phổ biến ở các nước phương Tây với tần suất 15-30% dân số. Ở các nước châu Á tần suất dao động 5-15%.
Có một cơ chế bảo vệ chống trào ngược gồm nhiều yếu tố. Hoạt động của cơ thắt dưới thực quản là yếu tố rất quyết định trong hiện tượng trào ngược dạ dày - thực quản. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ niêm mạc thực quản đối với HCI của dịch dạ dày.
Bình thường, cơ thắt dưới thực quản chỉ giãn mở ra khi nuốt, sau đó sẽ co thắt và đóng kín ngăn không cho dịch dạ dày trào ngược lên thực quản. Tuy nhiên, vẫn có lúc trương lực cơ bị giảm và dịch dạ dày trào ngược lên thực quản.
Khi có sự trào ngược của dịch dạ dày lên thực quản, dịch nhày thực quản với bicarbonat và nước bọt do có tính kiềm sẽ trung hòa HCI của dịch vị làm giảm hoặc mất sự kích thích của dịch vị lên niêm mạc thực quản. Nhu động của thực quản sẽ đẩy dịch trào ngược trở xuống dạ dày.
Khi cơ thắt dưới thực quản hoạt động không tốt sẽ dẫn đến bệnh trào ngược dạ dày - thực quản.
Các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn hoạt động của cơ thắt dưới thực quản và cơ chế bảo vệ chống trào ngược có thể do giãn cơ thắt dưới thực quản xảy ra thường xuyên hơn và kéo dài hơn, thoát vị hoành, rối loạn nhu động thực quản, giảm tiết nước bọt (thuốc lá) và các tác nhân làm giảm áp lực cơ thắt dưới thực quản như các thuốc secretin, cholécystokinine, glucagon; các thuốc kích thích β thụ cảm, ức chế α, kháng tiết choline, theophylline; các chất cafein, rượu, thuốc lá, chocolate, hay bữa ăn nhiều mỡ…
Các triệu chứng quan trọng của bệnh trào ngược dạ dày - thực quản là ợ nóng, trớ nuốt khó. Các triệu chứng không điển hình thường do các biến chứng của bệnh trào ngược dạ dày - thực quản bao gồm: