Thủy đậu là bệnh do vi-rút Herpes Varicella (còn gọi là Varicella Zoster) gây ra và rất dễ lây lan. Thông thường, bệnh biểu hiện nhẹ nhưng có thể trở nên nghiêm trọng với trẻ em, những người có hệ miễn dịch suy yếu, phụ nữ có thai, người mắc bệnh chàm và người cao tuổi. Nếu bị nhiễm trùng, bệnh có thể gây viêm phổi hoặc viêm não. Cần tránh tiếp xúc với người nghi ngờ mắc thủy đậu. Vi-rút Herpes Varicella lây truyền qua đường hô hấp, do các giọt nước bọt nhỏ chứa vi-rút lan vào không khí khi người bệnh ho hoặc hắt hơi. Vi-rút cũng có thể lây qua tiếp xúc trực tiếp với mụn nước thủy đậu. Người bị bệnh thủy đậu có thể lây bệnh cho người khác từ 1-2 ngày trước khi phát ban đến khi mụn nước đóng vảy. Sau khi khỏi bệnh, vi-rút Herpes Varicella vẫn tồn tại trong cơ thể ở dạng bất hoạt và có thể hoạt động trở lại, gây bệnh zona.
Sốt, nhức đầu, đau dạ dày, chán ăn. Phát ban xảy ra sau đó 1-2 ngày, là các mụn nước nhỏ màu đỏ. Phát ban bắt đầu ở vùng da đầu, tiếp theo là mặt và phần thân rồi lan đến tay và chân. Mụn nước cũng có thể xuất hiện trong miệng, âm đạo và mí mắt. Các nốt phát ban thường rất ngứa. Sau một vài ngày, các mụn nước đóng vảy cứng. Bệnh nhân có thể bị ho, khó thở, đau đầu nặng và nhầm lẫn tuy hiếm gặp.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm máu, xét nghiệm chất dịch ở mụn nước để xác định vi-rút, tuy nhiên không thật cần thiết.
Giữ da sạch sẽ, vệ sinh da bằng xà bông nhẹ và nước. Cố gắng không gãi. Bột yến mạch và các loại kem bôi có thể giúp giảm ngứa. Thuốc kháng histamin đường uống như diphenhydramine / Benadryl có thể hỗ trợ điều trị. Móng tay nên được cắt ngắn để ngăn ngừa tình trạng gãi làm trầy xước da. Các thuốc kháng virut như acyclovir / Zovirax phải được bắt đầu sử dụng trong vòng 24 giờ sau khi phát ban, được khuyến cáo dùng cho những nhóm có nguy cơ bị nhiễm trùng nặng và trong trường hợp nghi ngờ viêm phổi hoặc viêm não. Không dùng aspirin cho trẻ em vì nguy cơ mắc hội chứng Reyes. Tiêm phòng vắc-xin thủy đậu cho trẻ em giúp giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh thủy đậu và bệnh zona.
Bệnh thủy đậu do một loại virút mang tên Varicella zoster virus (VZV) gây nên. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, trẻ em mắc nhiều hơn người lớn và thường nhẹ hơn người lớn.
Bệnh rất dễ lây truyền: Khi một người mang virút thủy đậu nói, hắt hơi, sổ mũi hoặc ho... thì các virút đó theo nước bọt, nước mũi bắn ra ngoài, người khác hít phải sẽ lây bệnh ngay. Thông thường, từ lúc nhiễm virút đến lúc phát ra bệnh (được gọi là thời gian nung bệnh hoặc ủ bệnh) là khoảng 2-3 tuần.
Bệnh truyền nhiễm và lây lan qua sự đụng chạm vào ban ngứa của người bệnh thuỷ đậu hoặc qua những giọt nước nhỏ li ti trong không khí từ miệng hay mũi của người bị nhiễm bắn ra khi người bệnh hắt hơi, sổ mũi hoặc ho.
Bệnh cũng có thể lây lan qua sự tiếp xúc với quần áo hoặc ga trải giường bị ô nhiễm bởi chất dịch từ ban ngứa hoặc từ miệng hay mũi của người bị bệnh.
Bệnh phát triển trong vòng 10-21 ngày sau khi tiếp xúc với người bị nhiễm bệnh.
Bệnh thuỷ đậu có thể lây từ 1-2 ngày trước khi nổi ban ngứa cho đến khi tất cả những vết phồng đã đóng vảy (thông thường trong vòng 5 ngày từ khi những vết phồng nổi lên).
Những người có hệ miễn dịch bị suy yếu mà bị thủy đậu có thể phải mất thời gian lâu hơn để những mụn thuỷ đậu đóng vảy.
Khoảng 90% những người chưa từng bị thuỷ đậu sẽ bị nếu tiếp xúc với người bị nhiễm bệnh.
Bệnh thủy đậu là dovirus Varicella - Zoster virus ( V-Z virus), được tìm thấy trong dịch hầu họngvà nước ở các bóng nước. Người là ổ bệnh duy nhất, bệnh lây lan rất mạnh ở mức> 90% cá thể bị nhiễm virus mà chưa có kháng thể sẽ mắc bệnh.
Bệnh thủy đậu sẽ xuất hiện 10 - 14 ngày sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh. Khởi phát bệnh thường đột ngột với triệu chứng nổi mụn nước ở vùng đầu mặt, chi và thân.
Mụn nước xuất hiện rất nhanh, trong vòng 12 - 24 giờ có thể nổi toàn thân. Mụn nước có đường kính từ 1 - 3 mm, chứa dịch trong; tuy nhiên, những trường hợp nặng, mụn nước sẽ to hơn hay khi nhiễm thêm vi trùng thì mụn nước sẽ có màu đục do chứa mủ.
Ngoài mụn nước, trẻ nhỏ thường kèm sốt nhẹ, biếng ăn; ở người lớn hay trẻ lớn thường kèm sốt cao, đau đầu, đau cơ, nôn mửa. Bệnh sẽ kéo dài từ 7 - 10 ngày nếu không có biến chứng, các nốt thủy đậu sẽ khô dần, bong vảy, thâm da nơi nổi mụn nước, không để lại sẹo, nhưng nếu bị nhiễm thêm vi trùng thì mụn nước có thể để lại sẹo.
Ban ngứa có thể là dấu hiệu đầu tiên của cơn bệnh. Sốt nhẹ, nhức đầu và mệt mỏi là điều thông thường.
Người bị nhiễm bệnh có thể bị từ chỉ vài mụn thủy đậu cho đến hơn 500 mụn trên thân thể.
Vắcxin thuỷ đậu có hiệu quả cao và lâu dài, giúp cơ thể tạo kháng thể chống lại virút thủy đậu, được áp dụng đối với các đối tượng sau:
Hiệu quả bảo vệ của vắcxin thủy đậu có tác dụng lâu bền.
Nếu đã được tiêm phòng vắcxin thủy đậu thì đại đa số (80-90%) có khả năng phòng bệnh tuyệt đối. Tuy nhiên, khoảng 10% còn lại có thể bị thủy đậu sau khi tiêm chủng, nhưng các trường hợp này cũng chỉ bị nhẹ, với rất ít nốt đậu, khoảng dưới 50 nốt, và thường không bị biến chứng.
Thời gian ủ bệnh của thuỷ đậu là từ 1-2 tuần sau khi tiếp xúc với bệnh nhân, do đó, nếu một người chưa được tiêm phòng vắcxin thuỷ đậu mà có tiếp xúc với bệnh nhân thuỷ đậu, trong vòng 3 ngày có thể tiêm phòng và vắcxin có thể phát huy tác dụng bảo vệ ngay sau đó, giúp phòng ngừa thủy đậu.