Thấp khớp là một loại viêm khớp do bệnh tự miễn, gây sưng và đau ở các khớp, nhưng cũng có thể gây ra một loạt các triệu chứng khác. Bệnh thường xảy ra ở độ tuổi 20-60 và phổ biến hơn ở phụ nữ gấp 3 lần so với nam giới. Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được xác định cụ thể.
Mệt mỏi, tê cứng khớp buổi sáng (kéo dài hơn 1 tiếng), đau cơ lan rộng, mất cảm giác ngon miệng, yếu, dị dạng khớp (chủ yếu là khớp tay).
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Chụp x-quang có thể hữu ích. Xét nghiệm máu cụ thể, xét nghiệm kháng thể anti-CCP có thể giúp phân biệt thấp khớp và các loại viêm khớp khác. Các xét nghiệm khác có thể hữu ích bao gồm: xét nghiệm protein phản ứng C (CRP), xét nghiệm tốc độ lắng hồng cầu ESR và phân tích dịch khớp.
Đây là một căn bệnh cần điều trị lâu dài. Điều trị hướng vào việc kiểm soát các triệu chứng và làm chậm quá trình tổn thương khớp. Điều trị bao gồm: thuốc, vật lý trị liệu, và tập thể dục. Các loại thuốc được sử dụng bao gồm: thuốc chống viêm không steroid / NSAIDs (ibuprofen / Motrin hoặc Advil, naproxen / Naprosyn), steroids, thuốc DMARDs (hydroxychloroquine / Plaquenil, / Ridaura, sulfasalazine / Azulfidine, minocycline / Dynacin , methotrexate / Rheumatrex),thuốc ức chế miễn dịch (leflunomide / Arava, azathioprine / Imuran, cyclosporine / Neoral, cyclophosphamide / Cytoxan, rituximab / Rituxan), thuốc ức chế TNF-alpha (etanercept / Enbrel, infliximab / Remicade, adalimumab / Humira).
Với bệnh viêm khớp dạng thấp, lớp màng hoạt dịch khớp chính là đối tượng bị tấn công và tổn thương, do chính hệ miễn dịch của cơ thể gây ra.
Mặc dù thấp khớp là căn bệnh phổ biến ở mọi người, nhưng nó xuất hiện ở nữ giới nhiều hơn là nam giới. Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được xác định cụ thể.
Bệnh thấp khớp có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, nhưng hay gặp nhất là trong độ tuổi từ 25-50.
Đôi khi trẻ em cũng bị mắc bệnh thấp khớp. Người ta sử dụng thuật ngữ 'thấp khớp trẻ em' (Juvenile Rheumatoid Arthritis) để chỉ căn bệnh này ở trẻ em.
Những thuốc này ngoài tác dụng chữa bệnh còn có khá nhiều tác dụng phụ có hại như gây chóng mặt, buồn nôn, nổi mẩn ngứa, chảy máu, lên cơn hen... đặc biệt là tác dụng đối với dạ dày: làm tăng cơn đau, nôn, chảy máu dạ dày, thủng dạ dày... Do đó, khi dùng các thuốc chống thấp khớp phải tự theo dõi, nếu thấy có tác dụng phụ thì cần ngừng ngay thuốc và hỏi thầy thuốc để được chỉ dẫn tiếp.
Một số bệnh nhân và thầy thuốc thường có xu hướng lạm dụng thuốc thuộc nhóm cortison (prednison, dexamethason...) như dùng kéo dài, liều cao. Điều đó gây ra rất nhiều tai biến do các tác dụng phụ như: chảy máu và thủng dạ dày, lên cơn cao huyết áp, dễ nhiễm khuẩn, tăng đường trong máu (bệnh đái tháo đường), biến dạng cơ thể, giòn xương, suy tuyến thượng thận (dẫn đến tử vong). Các bác sĩ khuyến cáo người bệnh tuyệt đối không tự mua thuốc thuộc nhóm này để dùng. Thuốc phải được thầy thuốc thăm khám, chỉ định và theo dõi chặt chẽ khi sử dụng.
Một số trường hợp, tiêm thuốc trực tiếp vào trong ổ khớp mang lại kết quả rất tốt, nhưng phải được tiến hành ở các cơ sở y tế, do các thầy thuốc chuyên khoa tiến hành và phải được chỉ định đúng, sử dụng thuốc đúng loại và đúng liều lượng. Các bác sĩ khuyên rằng dù sao cũng không nên tiêm thuốc trực tiếp vào khớp.Khoa học cũng chứng minh rằng, sử dụng thuốc y học cổ truyền cũng có thể điều trị bệnh thấp khớp. Châm cứu, bấm huyệt được chứng minh là có tác dụng giảm đau, giãn cơ, điều chỉnh vận mạch... do đó người ta thường kết hợp châm cứu, bấm huyệt để tăng thêm hiệu quả điều trị của thuốc, đồng thời còn giúp cho quá trình phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân. Để chữa trị bệnh khớp ngoài việc luyện tập thì dùng thuốc để chống lại căn bệnh này hết sức quan trọng. Dưới đây là một số thuốc thường được sử dụng trong các bệnh về khớp: