Tăng bạch cầu đơn nhân là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính truyền nhiễm do virus Ebstein Barr. Bệnh xuất hiện ở mọi nơi trên thế giới, với bất cứ lứa tuổi nào, nhưng hay gặp ở độ tuổi 10-35. Bệnh có thể thành dịch hoặc lẻ tẻ, lây truyền chủ yếu qua nước bọt, thời gian ủ bệnh kéo dài vài tuần.
Sốt, viêm họng, viêm amidan lớn, sưng hạch bạch huyết (đặc biệt là ở cổ), nhức mỏi cơ thể, ăn mất ngon, lá lách to.
Thực hiện hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm máu bao gồm: xét nghiệm máu toàn bộ (CBC)để phát hiện tế bào bạch cầu bất thường (tế bào lympho không điển hình), xét nghiệm monospot và kháng thể đặc hiệu với virus Ebstein Barr.
Cho đến nay, chưa có thuốc đặc hiệu điều trị bệnh tăng bạch cầu đơn nhân truyền nhiễm. Hầu hết bệnh nhân phục hồi trong vòng 2-6 tuần. Acetaminophen (Tylenol), thuốc chống viêm không steroid/ NSAIDs (ibuprofen / Motrin hoặc Advil, naproxen / Naprosyn hoặc Aleve) và uống nhiều nước là phương pháp điều trị. Thuốc corticosteroid (prednisone) có thể được chỉ định cho những bệnh nhân có triệu chứng nặng hoặc lá lách rất lớn. Bệnh nhân được yêu cầu tránh chơi các môn thể thao để tránh hiện tượng vỡ lá lách.
Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính do vi-rút Epstein-Barr (vi-rút EB), thuộc tuýp 4 của họ vi-rút herpes gây ra.
Bệnh xuất hiện ở mọi nơi trên thế giới, với bất cứ lứa tuổi nào, nhưng hay gặp ở độ tuổi 10-35, bệnh có thể thành dịch hoặc lẻ tẻ, lây truyền chủ yếu qua nước bọt, thời gian ủ bệnh kéo dài vài tuần.
Nguyên nhân gây bệnh là các loại vi-rút như Epstain - Barr (EBV), vi-rút herpes gamma nhóm 4 ở người. Về mặt tổ chức học có liên quan đến những vi-rút herpes khác, nhưng khác biệt về phản ứng huyết thanh. Những vi-rút này xâm nhập vào cơ thể và làm biến đổi tế bào lympho B.
Bệnh cũng liên quan đến cơ chế bệnh lý của ung thư hạch bạch huyết, ung thư vòm họng và một số trường hợp ung thư dạ dày. Những rối loạn tăng sinh miễn dịch có thể gây tử vong bao gồm sự bành trướng của tế bào lympho B đa dòng bị nhiễm EBV có thể xảy ra ở những người có rối loạn tăng sinh miễn dịch lặn liên quan với nhiễm sắc thể X.
Các hội chứng đó có thể xảy ra ở những người có thiếu hụt miễn dịch mắc phải bao gồm cả hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), những người được cấy ghép tạng và những người mắc các chứng bệnh khác đòi hỏi phải điều trị ức chế miễn dịch lâu dài.
Trên lâm sàng, triệu chứng ở các bệnh nhân rất khác nhau. Trường hợp điển hình có sốt, đau họng; những dấu hiệu nhiễm độc như mệt mỏi, chán ăn, đau cơ xuất hiện trong giai đoạn đầu của bệnh.
Khám thấy các dấu hiệu:
Những biểu hiện khác gồm:
Cho đến nay, chưa có thuốc đặc hiệu điều trị bệnh tăng bạch cầu đơn nhân truyền nhiễm. Các thuốc kháng vi-rút như acyclovir, ganciclovir không có tác dụng, mặc dù thuốc như penciclovir (tiền chất của famciclovir) có đặc tính kháng EBV. Có thể dùng các thuốc acetaminophen và các thuốc kháng viêm không aspirin, không steroid để điều trị triệu chứng.
Chế độ nghỉ ngơi, sinh hoạt, kiêng cữ: Nên súc miệng bằng nước muối ấm ngày 3-4 lần. Dùng corticosteroid liệu trình 5 ngày rồi giảm dần liều điều trị cho các trường hợp: hạch to, có nguy cơ gây tắc đường hô hấp, thiếu máu do tan huyết tự miễn, giảm tiểu cầu. Lưu ý không dùng corticosteroid điều trị các trường hợp tăng bạch cầu đơn nhân truyền nhiễm cấp không có biến chứng.
Phải chú ý điều trị triệu chứng cho bệnh nhân bị các biến chứng: viêm gan, viêm cơ tim và viêm não. Phẫu thuật cắt lách cấp cứu nếu bệnh nhân bị vỡ lách.
Những trường hợp không có biến chứng, tiên lượng bệnh tăng bạch cầu đơn nhân truyền nhiễm khá tốt: hết sốt trong vòng 10 ngày, lách to, hạch to sẽ nhỏ lại trong vòng 4 tuần. Tuy nhiên, tình trạng mệt mỏi có thể kéo dài 2-3 tháng. Có ít trường hợp bệnh nhân tử vong do vỡ lách, cường lách (như thiếu máu tan máu nặng, xuất huyết giảm tiểu cầu) hoặc viêm não.