Thận là rất cần thiết để duy trì sự cân bằng chất lỏng trong cơ thể và kiểm soát hóa học của cơ thể. Suy thận dẫn đến tích tụ các chất lỏng và các sản phẩm chất thải trong máu. Một tác dụng phụ nghiêm trọng là sự nâng cấp kali của cơ thể có thể dẫn đến rối loạn nhịp tim đe dọa cuộc sống và cái chết. Bệnh suy thận mạn tính là khi thận bị suy thoái từ từ và thường vĩnh viễn mất chức năng thận qua thời gian.
Mệt mỏi, ngứa toàn thân, nhức đầu, buồn nôn, ói mửa, sụt cân không chủ ý, máu trong chất nôn hoặc trong phân, giảm sự tỉnh táo, lú lẫn, mê sảng, hôn mê, giảm cảm giác ở bàn tay và bàn chân, dễ bị bầm tím hoặc chảy máu, tăng hoặc giảm lượng nước tiểu, co giật cơ hoặc chuột rút.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), siêu âm, xét nghiệm nước tiểu.Xét nghiệm bổ sung có thể được yêu cầu: xét nghiệm khí máu động mạch (ABG)
Mục tiêu của điều trị là kiểm soát triệu chứng, giảm các biến chứng và làm chậm sự tiến triển của bệnh. Lựa chọn điều trị bao gồm chế độ ăn kiêng, thuốc lợi tiểu (thuốc nước), truyền máu, và / hoặc lọc máu ngoài thận. Những bệnh gây suy thận mãn tính phải được kiểm soát và điều trị. Một số bệnh nhân có thể được chỉ định cấy ghép thận.
Bệnh suy thận mạn tính là khi thận bị suy thoái từ từ và thường vĩnh viễn mất chức năng thận qua thời gian. Điều này xảy ra dần dần theo thời gian, thông thường từ nhiều tháng đến nhiều năm. Bệnh suy thận mạn tính được chia thành 5 giai đoạn theo mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng.
Mô Tả: GFR mL/min/1.73m2 ( GFR là tỷ lệ lọc cầu thận, một phép đo chức năng của thận)
Giai đoạn thứ 5 của suy thận mạn tính cũng được gọi là giai đoạn cuối bệnh thận, trong đó toàn bộ hay hầu như toàn bộ thận mất chức năng thận và bệnh nhân cần chạy thận hoặc cấy ghép thận để sinh tồn. Do đó, một tên khác cho suy thận = 'kidney failure'. Loại bệnh suy thận nhẹ thường được gọi là ' renal insufficiency' .
Hầu hết các bệnh mạn tính khởi phát là bệnh cầu thận, bệnh ống kẽ thận hay bệnh mạch thận đều có thể dẫn đến suy thận mạn.
Qua trên, thấy nguyên nhân hay gặp là bệnh viêm cầu thận mạn và viêm thận, bể thận mạn; do đó việc khai thác tiền sử của bệnh nhân và phát hiện hai nguyên nhân nói trên để điều trị sớm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giảm tỷ lệ của bệnh suy thận mạn.
Mặc dù tổn thương khởi phát ở cầu thận, hệ mạch thận hay tổ chức kẽ thận thì các Nephron bị thương tổn nặng cũng sẽ bị loại khỏi vai trò chức năng sinh lý. Chức năng của thận chỉ được đảm bảo nguyên vẹn bởi các nephron nguyên vẹn còn lại. Khi khối lượng nephron chức năng bị tổn thương quá nhiều, số còn lại không còn đủ để duy trì sự hằng định của nội môi thì bắt đầu xuất hiện các biến loạn về nước điện giải, về tuần hoàn, về hô hấp, về tiêu hóa, về thần kinh tạo nên hội chứng suy thận mạn.
Triệu chứng lâm sàng:
Biểu hiện cận lâm sàng.
Hiện nay, có 2 phương pháp điều trị lọc máu ngoài thận là thận nhân tạo và thẩm phân phúc mạc. Việc chọn lựa phương pháp thích hợp cần tùy thuộc người bệnh, điều kiện địa lý xa hoặc gần trung tâm thận nhân tạo...