Bệnh Rubella (sởi Đức) là bệnh truyền nhiễm do virut rubella gây ra. 80% phụ nữ bị nhiễm rubella trong 11 tuần đầu sẽ truyền vi rút sang thai nhi. Hậu quả là thai nhi bị chết hoặc có thể bị hội chứng rubella bẩm sinh. Nếu trẻ nhỏ nhiễm rubella chỉ biểu hiện nhẹ thì trẻ sơ sinh mắc hội chứng rubella bẩm sinh sẽ phải gánh chịu những dị tật nặng nề. Ngoài điếc là dị tật thường gặp, hội chứng rubella bẩm sinh còn gây dị tật ở mắt, tim và não. Ước tính hàng năm trên thế giới có 700.000 trẻ em chết vì hội chứng rubella bẩm sinh.
Sốt nhẹ (thấp hơn 38 độ C), nhức đầu, mệt mỏi, chảy nước mũi, mắt đỏ, phát ban bắt đầu trên mặt và lan khắp cơ thể, cơ bắp đau nhức, đau khớp.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm máu tìm kháng thể chống lại vi-rút rubella. Lấy dịch tiết mũi họng để nuôi cấy tìm vi-rút. Kiểm tra bổ sung có thể được yêu cầu.
Không có điều trị đặc hiệu. Acetaminophen (Tylenol) hay ibuprofen (Motrin / Advil) có thể được sử dụng để giảm sốt. Phụ nữ mang thai nhiễm bệnh cần được thảo luận để lựa chọn điều trị đặc biệt. Điều trị hội chứng rubella bẩm sinh.
Bệnh rubella là bệnh truyền nhiễm do virut gây ra. Khi người phụ nữ bị nhiễm vi rút rubella trong giai đoạn đầu trong 3 tháng đầu của quá trình mang thai, có tới 90% số trường hợp người mẹ có thể truyền vi rút sang thai nhi. Hậu quả thai nhi bị chết hoặc có thể gây hội chứng rubella bẩm sinh. Nếu như ở trẻ nhỏ nhiễm rubella chỉ biểu hiện nhẹ, thì ở trẻ sơ sinh mắc hội chứng rubella bẩm sinh sẽ phải gánh chịu những dị tật nặng nề. Ngoài điếc là dị tật thường gặp, hội chứng rubella bẩm sinh còn có dị tật ở mắt, tim và não. Ước tính hàng năm trên thế giới có 700.000 trẻ em bị chết vì hội chứng rubella bẩm sinh.
Trước khi vaccin phòng rubella ra đời vào năm 1969, cứ theo chu kỳ 6-9 năm, thế giới lại chứng kiến một nạn dịch rubella. Thời kỳ đó, trẻ từ 5 đến 9 tuổi bị ảnh hưởng nặng nề nhất và có rất nhiều ca bệnh rubella bẩm sinh. Ngày nay, nhờ các chương trình tiêm chủng cho trẻ nhỏ và thiếu niên, số bệnh nhân rubella giảm hẳn. Phần lớn sự lây nhiễm rubella hiện nay lại xuất hiện ở những thanh niên chưa được tiêm phòng. Trên thực tế, ước tính hiện có khoảng 10% số thanh niên mắc bệnh rubella và đe dọa tới sức khỏe của đứa con trong tương lai.
Giai đoạn ủ bệnh rubella là từ 14 đến 23 ngày, trung bình là 16 -18 ngày. Tình trạng phát ban rubella thường kéo dài 3 ngày. Tuy nhiên, các hạch bạch huyết có thể tiếp tục sưng trong vòng 1 tuần hoặc lâu hơn, và hiện tượng đau khớp có thể kéo dài hơn nửa tháng. Trẻ bị rubella sẽ bình phục trong 1 tuần, nhưng người lớn thì có thể lâu hơn.
Bệnh nhân rubella có nguy cơ truyền bệnh cao nhất 1 tuần trước khi phát ban và 1 tuần sau đó. Người bị lây nhiễm nhưng không có triệu chứng cũng dễ lây lan.
Có thể phòng tránh rubella bằng vắc-xin. Các chương trình tiêm chủng mở rộng phòng rubella đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát bệnh lây lan, giúp ngăn ngừa những dị tật bẩm sinh do hội chứng rubella bẩm sinh gây nên. Vaccin rubella thường nằm trong chương trình tiêm chủng MMR (phòng bệnh sởi, quai bị và rubella). Trẻ từ 12 đến 15 tháng tuổi được tiêm mũi MMR thứ nhất. Mũi thứ hai được áp dụng từ 4 đến 6 tuổi, và không quá 11-12 tuổi.