Là rối loạn tâm thần đặc trưng bởi cảm giác trống trải, khả năng tự nhận thức kém, các mối quan hệ không ổn định và có hành vi bốc đồng. Các triệu chứng thường xuất hiện ở giai đoạn bắt đầu bước vào tuổi trưởng thành. Những người mắc rối loạn này thường bị rối loạn tâm trạng, rối loạn ăn uống hay lạm dụng chất gây nghiện. Tỉ lệ phụ nữ mắc rối loạn này nhiều gấp 3 lần nam giới.
Các triệu chứng bao gồm khả năng tự nhận thức không ổn định, bốc đồng, có hành vi tự tử, sợ bị bỏ rơi và khó kiểm soát sự tức giận. Một số người bị hoang tưởng, có các triệu chứng loạn thần.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Các xét nghiệm được thực hiện để loại trừ các bệnh khác. Chẩn đoán dựa trên đánh giá lâm sàng.Kiểm tra nồng độ hormone kích thích tuyến giáp (TSH), xét nghiệm nước tiểu hoặc kiểm tra độc chất trong huyết thanh.
Điều trị tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh. Tâm lý trị liệu là một biện pháp thiết yếu. Không có loại thuốc cụ thể để điều trị rối loạn nhân cách. Sử dụng thuốc căn cứ vào triệu chứng. Thuốc chống trầm cảm như fluoxetine (Prozac), sertraline (Zoloft), paroxetin (Paxil) và citalopram (Celexa) thường được sử dụng để điều trị các triệu chứng trầm cảm. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể cho dùng thêm chất ổn định tâm trạng như lithium (Lithobid và tên thương hiệu khác) hoặc topiramate (Topamax). Trường hợp có triệu chứng tâm thần, bác sĩ có thể kê thêm thuốc risperidone (Risperdal) hoặc olanzapine (Zyprexa).
Rối loạn nhân cách là một tập hợp các trạng thái để biệt định các đối tượng có cách sống, cách cư xử và cách phản ứng hoàn toàn khác biệt với 'người thường' nhưng lại không đủ các triệu chứng của một bệnh lý tâm thần đặc trưng. Nói vậy để thấy rằng khái niệm về rối loạn nhân cách là một khái niệm tiến triển và thay đổi theo sự phát triển của ngành tâm thần.
J.Reich cũng như Kaplan đều đưa ra các con số là 6 - 11,1% dân số chung có vấn đề về rối loạn nhân cách.
Nhân cách bình thường thể hiện ở sự tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, các thể chế xã hội hiện hành. Sự bình thường còn được thể hiện ở tính đáp ứng đa dạng với những đòi hỏi của hoàn cảnh xung quanh.
Nhìn sâu hơn ta có thể dựa vào 3 yếu tố sau để quy định tính “bình thường” của nhân cách, đó là tính giá trị, tính bình quân và tính thích ứng.
Ta nói tới tính bệnh lý khi nhân cách được xây dựng trên nền tảng của sự phòng thủ quá đáng của tính lo âu loạn thần kinh hoặc ngược lại đẩy bệnh nhân tới rìa biên giới giữa sự bình thường và thế giới phi thực tế của loạn thần.
Hiện tại, các bác sĩ vẫn chưa biết rõ những nguyên nhân gây rối loạn nhân cách, nhưng có nhiều manh mối. Chắc chắn, không phải một yếu tố đơn lẻ có thể gây bệnh, mà có thể là sự kết hợp của:
Tuy nguyên nhân vàcơ chế bệnh sinh vẫn còn chưa rõ, nhưng các nhà khoa học cũng đã chứng minhđược rằng, nếu có một lối sống lành mạnh, có một nhân cách mạnh mẽ, biết tiếpnhận và xử lý thông tin một cách thông minh và tỉnh táo thì người ta có thể tựbảo vệ được mình trước chứng rối loạn nhân cách.