Rối loạn lipid máu (tăng mỡ máu, máu nhiễm mỡ) thực chất là tình trạng hàm lượng cholesterol trong máu cao. Nồng độ cholesterol cao trong máu làm tăng nguy cơ động mạch bị thu hẹp. Tắc nghẽn động mạch gây ra bởi sự tích tụ của mảng bám và chất béo (xơ vữa động mạch). Các bệnh do tắc nghẽn động mạch gây ra bao gồm: các cơn đau tim, đột quỵ và bệnh mạch máu ngoại biên. Những người có cholesterol cao có nhiều khả năng bị huyết áp cao và bệnh tiểu đường. Có hai loại cholesterol tạo nên tổng mức cholesterol: LDL và HDL. LDL được xem là cholesterol xấu và HDL là cholesterol tốt. Để biết nguy cơ thực sự của tình trạng cholesterol cao, trong xét nghiệm máu cần đo cả LDL và HDL. Nói chung, LDL nên ở mức ít hơn 130 mg/ dL và mức lớn hơn 160 mg/ dL được xem là quá cao. Mức HDL thấp hơn 40 mg/ dL làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch. Mức cholesterol của một người được xác định một phần bởi gen di truyền, một phần bởi các loại thực phẩm chúng ta ăn. Cải thiện chế độ ăn uống và dùng thuốc giúp giảm mức cholesterol xấu.
Thường không có triệu chứng.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm máu đo nồng độ cholesterol toàn phần, LDL và HDL.
Phụ thuộc vào nồng độ LDL và nguy cơ tắc nghẽn động mạch (xơ vữa động mạch). Ăn uống lành mạnh, tập thể dục, giảm cân có thể cải thiện tình trạng tăng cholesterol mức độ nhẹ. Các phương pháp điều trị khác bao gồm dùng các loại thuốc như statin (atorvastatin/ Lipitor, fluvastatin/ Lescol, lovastatin/ Altocor hoặc Mevacor, pravastatin/ Pravachol, rosuvastatin/ Crestor, simvastatin/ Zocor), thuốc ràng buộc acid mật (cholestyramine/ Prevalite hoặc Questran, colesevelam/ Welchol, colestipol/ Colestid), thuốc ức chế hấp thu cholesterol (ezetimibe/ Zetia) và các loại thuốc kết hợp (ezetimibe-simvastatin/ Vytorin).
Ở nước ta, bệnh vữa xơ động mạch với các biểu hiện lâm sàng như suy mạch vành, đột tử, nhồi máu cơ tim, nhồi máu não... trước đây ít gặp, nay đang có xu hướng tăng nhanh theo nhịp độ phát triển của xã hội.
Nguyên nhân của bệnh xơ vữa động mạch chủ yếu là do các rối loạn lipid máu. Rối loạn lipid máu là tình trạng tăng cholesterol, triglycerides (TGs) huyết tương hoặc cả hai, hoặc giảm nồng độ lipoprotein phân tử lượng cao (HDL-C), tăng nồng độ lipoprotein phân tử lượng thấp (LDL-C) làm gia tăng quá trình vữa xơ động mạch.
Nguyên nhân có thể tiên phát (do di truyền) hoặc thứ phát. Chẩn đoán bằng xét nghiệm cholesterol, triglycerides và các thành phần lipoprotein máu. Điều trị bằng thay đổi chế độ ăn uống, hoạt động thể lực và dùng thuốc hạ lipid máu và lưu ý điều trị căn nguyên.
Đối với người bình thường, chỉ số cholesterol ở mức < 5,2 mmol/l; triglycerid < 2,3 mmol/l. Nếu vượt quá từng giới hạn này sẽ dẫn đến rối loạn lipid máu, và vượt qua cả hai thì mắc phải chứng rối loạn lipid máu thể hỗn hợp.
Máu nhiễm mỡ có thể bắt đầu từ khoảng 20 tuổi trở lên, diễn biến bệnh kéo dài, không có biểu hiện gì rõ rệt và thường chỉ được phát hiện qua xét nghiệm máu. Hầu hết bệnh nhân đến gặp bác sĩ thường là đã ở giai đoạn muộn, khi các chất béo dư thừa trong máu đã lắng thành xơ mạch máu, gây xơ vữa động mạch. Nếu không được điều trị kịp thời, lớp mỡ ngày càng dày lên và có thể làm tắc mạch máu, hậu quả là lượng máu không đủ để nuôi các cơ quan trong cơ thể.
Bệnh rối loạn mỡ máu có thể phòng ngừa được bằng cách có chế độ ăn uống, vận động hợp lý. Việc phòng ngừa và phát hiện sớm là rất quan trọng. Thông thường sau 25 tuổi nên đi kiểm tra rối loạn mỡ máu 1 năm/lần để có hướng điều chỉnh kịp thời. Công tác này hiện nay được thực hiện rất phổ biến và dễ dàng ở các bệnh viện bằng cách xét nghiệm máu. Trước khi đi xét nghiệm cần nhịn đói tối thiểu 6 giờ.
Rối loạn lipid có thể là nguyên phát hoặc thứ phát. Đối với thể thứ phát, phải điều trị bệnh chính gây nên chứng đó (ví dụ bệnh đái tháo đường, cường giáp...) hoặc phải ngừng một số thuốc gây rối loạn lipid máu như hypothiazid, cyclosporin ...
Mục tiêu điều trị chứng rối loạn lipid máu là đưa các thông số lipid về giới hạn bình thường hoặc gần bình thường.Việc chọn mục tiêu điều trị thích hợp phải dựa vào việc phát hiện và đánh giá tính chất của các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân như tiền sử có bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, tăng huyết áp, đái tháo đường, hút thuốc lá, tình trạng béo phì tuổi cao (trên 50 tuổi).
Các biện pháp can thiệp chứng rối loạn lipid máu: