Là một rối loạn dẫn đến tắc nghẽn mạn tính đường dẫn khí trong phổi. Hai loại phổ biến nhất của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là bệnh khí thũng và viêm phế quản mạn tính. Nguyên nhân chính là do hút thuốc lá. Các mức độ và triệu chứng của bệnh có thể rất khác nhau.
Khó thở, ho, ho có đờm, đau ngực, thở khò khè, mệt mỏi, da xanh.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Chụp X-quang, CT scan phổi, xét nghiệm chức năng phổi (PFTs), xét nghiệm khí máu động mạch (ABG) đo lượng oxy trong máu sẽ được thực hiện để xác định mức độ của bệnh.
Điều trị tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, có thể bao gồm: dùng thuốc giãn phế quản (như albuterol hoặc Atrovent), steroids, và / hoặc thuốc kháng sinh. Phẫu thuật loại bỏ các phần của phổi bị ảnh hưởng nghiêm trọng và / hoặc ghép phổi.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hay COPD, là tình trạng tắc nghẽn đường dẫn khí lâu ngày kèm với viêm phế quản mạn, khí phế thũng, hay cả hai. Tình trạng tắc nghẽn này tăng dần theo thời gian.
Viêm phế quản mạn tính được định nghĩa là tình trạng ho kéo dài không gây ra bởi những nguyên nhân khác và có đờm từ 3 tháng trở lên mỗi năm trong vòng 2 năm liên tiếp. Ở bệnh viêm phế quản mạn tính, các tuyến tiết nhầy ở phổi trở nên lớn hơn. Đường dẫn khí bị viêm và thành phế quản dày lên. Những thay đổi trên và sự biến mất của các phế nang gắn với chúng làm giới hạn thông khí do các thành ống dẫn khí bị méo mó và lòng ống dẫn khí bị hẹp lại.
Khí phế thũng là tình trạng tăng kích thước vĩnh viễn một cách bất thường của các túi khí (phế nang) nằm ở cuối đường dẫn khí của phổi. Khí phế thũng cũng phá hủy thành của các phế nang. Có 3 dạng khí phế thũng: khí phế thũng trung tâm, khí phế thũng toàn thể và khí phế thũng ngoại biên.
Tại Hoa Kỳ, có khoảng 14,2 triệu người được chẩn đoán là COPD, 12,5 triệu người bị viêm phế quản mạn tính, và 1,7 triệu người bị khí phế thũng. Người ta ước lượng rằng cũng có chừng đó người tại Hoa Kỳ bị COPD nhưng chưa được phát hiện bệnh. Số người bị COPD đã gia tăng 41,5% tính từ năm 1982. Gần 8 - 17% nam giới Mỹ và 10 - 19% phụ nữ Mỹ bị tắc nghẽn đường hô hấp mạn tính. Sự tắc nghẽn này làm giảm dòng khí lưu thông qua phổi khi thở ra. Trong suốt 1 thập kỷ trước, số phụ nữ bị COPD đã tăng khoảng 30%.
Theo một nghiên cứu vào năm 1985, tỷ lệ tử vong do COPD ở những bệnh nhân 55-84 tuổi vào khoảng 200/100.000 người đối với nam và 80/100.000 người đối với nữ tại Hoa Kỳ. Mặc dù nam giới có tỷ lệ tử vong cao hơn nhưng tỷ lệ tử vong ở nữ giới cũng đang gia tăng.
Trên thế giới, do có hơn 1,2 tỷ người tiếp xúc với khói thuốc nên số người bị COPD cũng khá cao.
Vào năm 1990, tỷ lệ mắc bệnh COPD trên thế giới là 9,4/1.000 ở nam và 7,3/1.000 ở nữ.
Một nghiên cứu ở Tây Ban Nha cho thấy có khoảng 9,1% người ở độ tuổi từ 40-69 bị COPD. Trong số đó có 78% là nam giới.
Tỷ lệ tử vong do COPD thay đổi tùy theo quốc gia. Chẳng hạn như có 400/100.000 trường hợp tử vong ở nam giới độ tuổi 65-74 tại Romania, trong khi đó tỷ lệ này ở Nhật Bản là dưới 100/100.000 người.
Hút thuốc hoặc tiếp xúc với khói thuốc là nguyên nhân hàng đầu gây COPD. COPD xảy ra ở khoảng 15% người nghiện thuốc và việc sử dụng thuốc lá chiếm 90% nguy cơ mắc bệnh này. Hút thuốc lá thụ động hoặc tiếp xúc với khói thuốc cũng làm gia tăng tỷ lệ nhiễm trùng đường hô hấp dẫn đến giảm chức năng của phổi.
Những người hút thuốc lá có thể tích thở ra gắng sức (FEV - forced expiratory volume) giảm rất nhanh. FEV là thể tích không khí tối đa mà người đó có thể thở ra trong một khoảng thời gian quy định ngay sau khi hít vào tối đa. Con số nhỏ phía dưới chỉ khoảng thời gian quy định tính bằng giây. Chẳng hạn như FEV1 là thể tích không khí tối đa có thể thở ra trong vòng 1 giây. Giảm FEV làm cho người bệnh thở hơi ngắn và khó thở.
Người ta vẫn chưa xác định được chắc chắn việc ô nhiễm không khí có gây COPD hay không. Tuy nhiên, nếu có thì hậu quả của nó cũng nhỏ so với thuốc lá.
Một số bệnh nhân COPD bị tăng nhạy cảm đường hô hấp, là tình trạng đường hô hấp phản ứng quá mức với những chất kích thích từ không khí, chẳng hạn như khói thuốc lá và chất ô nhiễm.
Vai trò làm yếu tố nguy cơ của chứng bệnh này đối với COPD ở những người hút thuốc vẫn chưa được chứng mình rõ ràng. Tuy nhiên, theo một giả thiết, bệnh nhân tăng nhạy cảm đường hô hấp và có hút thuốc sẽ tăng nguy cơ bị COPD và tăng tỷ lệ suy giảm chức năng phổi.
Men alpha 1-antitrypsin là một loại protein của cơ thể được gan sản xuất để giúp bảo vệ phổi khỏi bị tổn thương. Thiếu men alpha 1-antitrypsin là khi gan không sản xuất đủ loại protein này.
Thiếu men alpha 1-antitrypsin có tính chất di truyền, và nó là yếu tố nguy cơ di truyền duy nhất của COPD được biết đến. Nó chiếm khoảng dưới 1% số trường hợp bị COPD ở Hoa Kỳ. Thiếu men alpha 1 -antitrypsin nặng có thể dẫn đến khí phế thũng ở những người trẻ tuổi, và ở những người không hút thuốc, độ tuổi khởi phát trung bình của khí phế thũng là 53 tuổi, đối với những người hút thuốc là 40 tuổi.
Hầu hết những người bị COPD hút ít nhất 10 - 20 điếu thuốc mỗi ngày trong 20 năm hoặc hơn trước khi thấy triệu chứng. Do đó, thường thì COPD không được chẩn đoán cho đến khoảng 40 - 49 tuổi.
COPD không thể chữa được nhưng có thể phòng ngừa. Để phòng COPD cần phải:
Mục tiêu điều trị đối với COPD là cải thiện chất lượng sống bằng cách phòng ngừa các triệu chứng và cơn nặng của bệnh, do đó bảo toàn chức năng tối ưu của phổi.
Nếu bị chẩn đoán là COPD, bạn nên tìm hiểu kỹ về bệnh của mình và tham gia tích cực vào chương trình điều trị.
Ngừng hút thuốc là việc quan trọng nhất bạn có thể làm để cải thiện tình hình. Hầu hết những bệnh nhân bị COPD đang hút thuốc hoặc đã từng hút thuốc trước đây. Kế hoạch ngừng hút thuốc là một phần cơ bản trong toàn bộ kế hoạch điều trị. Tuy nhiên, tỷ lệ bỏ thuốc thành công vẫn thấp do những nguyên nhân sau:
Quá trình chuyển từ hút thuốc sang không hút thuốc gồm 5 giai đoạn:
Tiến trình bỏ thuốc có thể có sự can thiệp của nhiều phía, bao gồm:
Một chương trình bỏ thuốc thành công thường dùng các nguồn trợ lực sau:
Ba mục tiêu chính của việc điều trị COPD là:
Những cơn cấp của COPD là một trong những nguyên nhân chính khiến bệnh nhân phải nhập viện tại Hoa Kỳ.
Bạn có thể phải cần nhập viện nếu bị suy chức năng hô hấp nặng, nếu bệnh tiến triển, hoặc nếu bạn có một bệnh về hô hấp nghiêm trọng khác (như viêm phổi, viêm phế quản cấp). Mục tiêu nhập viện là để điều trị triệu chứng và ngăn ngừa diễn tiến xấu hơn).
Có thể bạn sẽ phải vào phòng Chăm sóc tích cực (ICU - Intensive care unit) nếu cần phải thở máy xâm lấn hoặc không xâm lấn hoặc nếu có những triệu chứng sau:
Các bác sĩ có thể cho rằng bạn cần phải dùng thuốc để giảm bớt các triệu chứng.
Trong vòng 50-75 năm gần đây, nhiều phương pháp phẫu thuật đã được thử để cải thiện triệu chứng và phục hồi chức năng của phổi ở những người bị khí phế thũng nhưng chỉ có mổ cắt bóng khí và có thể là phẫu thuật làm giảm thể tích phổi được chứng minh là có hiệu quả.
Là phẫu thuật cắt những bóng khí lớn ở phổi do khí phế thũng nằm ở phần ngoại vi của phổi. Phẫu thuật này được xem là phẫu thuật tiêu chuẩn trong nhiều năm. Bóng khí ở những bệnh nhân bị khí phế thũng thường có kích thước thay đổi từ 1 - 4 cm đường kính, tuy nhiên, bóng khí có thể chiếm hơn 33% nửa ngực.
Các bóng khí có thể chèn ép những nhu mô phổi gần kề, giảm lượng máu đến và giảm thông khí cho những mô khỏe mạnh. Loại bỏ những bóng khí này sẽ giúp phần phổi bị chèn ép nở ra và chức năng được cải thiện.
Lần đầu tiên được thực hiện cách đây gần 40 năm. Thông thường, phẫu thuật viên sẽ lấy đi 20-30% từ phần trên của mỗi phổi, là khu vực thường bị thương tổn nhiều nhất do khói thuốc. Người ta lý giải rằng việc lấy đi phần phổi bị bệnh sẽ làm tăng đường kính đường dẫn khí ở những phần phổi còn lại và do đó sẽ cải thiện chức năng phổi và thông khí, sẽ làm giảm triệu chứng.
Thủ thuật này có tỷ lệ tử vong từ 0 - 8% và một số biến chứng. Tiêu chuẩn để xác định những ai nên phẫu thuật gần đây đã được công bố. Nói chung, tất cả những người nên phẫu thuật là những người có các triệu chứng của khí phế thũng nặng, phì đại đường thở và bóng khí do khí phế thũng một cách nhanh chóng, và bằng chứng của khí phế thũng trên HRCT. Một nghiên cứu lớn vừa mới được hoàn thành cho thấy những bệnh nhân bị bệnh phổi ở thùy trên và dung nạp kém với vận động thể lực có thể được hưởng lợi từ phương pháp này.
Ghép phổi là cách điều trị tương đối mới đối với những bệnh nhân bị bệnh phổi nặng. Những người bị COPD nằm trong nhóm lớn nhất những người được ghép. Thời gian ghép rất khó xác định, nhưng những người được lựa chọn để ghép là người chỉ còn có thể sống được dưới 2 năm nữa do COPD nếu không được ghép.