Bệnh phổi kẽ là các tổn thương gây ra sẹo tiến triển ở mô phổi, gây tình trạng khó thở và thiếu ôxy cho cơ thể. Hầu hết các ca bệnh tổn thương tiến triển dần dần, nhưng cũng có một số trường hợp xuất hiện đột ngột. Có nhiều nguyên nhân gây bệnh như nhiễm trùng, tiếp xúc với chất độc, phóng xạ và một số thuốc, đôi khi không rõ nguyên nhân. Nếu tình trạng bệnh nặng, cơ thể không được cung cấp đủ oxy, bệnh nhân có thể bị huyết áp cao trong động mạch phổi và suy tim phải, dẫn đến suy hô hấp và tử vong.
Khó thở, ho khan, thở khò khè, đau ngực, da xanh tím.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Sinh thiết phế quản hay phổi có thể được thực hiện để xác định chẩn đoán. Chụp X-quang và CT scan phổi, xét nghiệm chức năng phổi (PFTs), soi phế quản. Xét nghiệm khí máu động mạch (ABG) đo lượng oxy trong máu thường được thực hiện.
Không có cách chữa khỏi sẹo phổi. Điều trị nhằm mục đích làm giảm sự gia tăng sẹo. Sử dụng thuốc steroid và các thuốc khác. Liệu pháp thở oxy được sử dụng để ngăn ngừa huyết áp cao của động mạch phổi và suy tim phải. Trường hợp nghiêm trọng cần phẫu thuật cấy ghép phổi.
Bệnh phổi kẽ là các tổn thương gây ra sẹo tiến triển ở mô phổi, gây tình trạng khó thở và thiếu ôxy cho cơ thể. Hầu hết các ca bệnh tổn thương tiến triển dần dần, nhưng cũng có một số trường hợp xuất hiện đột ngột.
Bệnh phổi kẽ có thể được phân loại thành nguyên nhân biết và chưa biết. Nguyên nhân phổ biến được biết đến bao gồm các bệnh tự miễn dịch hoặc bệnh về khớp, tiếp xúc nghề nghiệp và hữu cơ, thuốc men, và bức xạ. Bệnh phổi kẽ không rõ nguyên nhân bào gồm xơ hóa phổi tự phát, bệnh xơ phổi, viêm phổi kẽ tự phát.
Khi phổi đã bị sẹo thường không thể hồi phục.
Tuy nhiên, nhiều trường hợp không thể biết rõ nguyên nhân. Các yếu tố nguy cơ gồm: viêm phổi kẽ, viêm tiểu phế quản, người trên 50 tuổi, hút thuốc lá thuốc lào, trào ngược dạ dày thực quản do acid dạ dày hoặc muối mật vào phổi.
Các triệu chứng có xu hướng nặng dần. Thời gian lâu, khó thở diễn ra thường xuyên dù chỉ làm việc nhẹ như mặc quần áo, nói chuyện trên điện thoại, ăn uống.
Sở dĩ bệnh nhân bị khó thở là do: Bệnh viêm phổi kẽ gây viêm thành của các túi khí và các mô làm cho các túi khí bị dày lên và thành sẹo. Bình thường các túi khí đàn hồi cao, mở rộng và giãn nở nhịp nhàng theo từng hơi thở. Nhưng khi đã bị sẹo (xơ hóa) thành túi khí vừa cứng vừa dày làm cho khả năng đàn hồi co giãn của nó bị hạn chế, khí ôxy cũng khó vào máu qua những bức thành dày của túi khí làm cho cơ thể bị thiếu ôxy.
Chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính (CT), có thể thấy hình ảnh tổn thương của phổi. Xét nghiệm chức năng phổi (PFTs); tập thể dục thử nghiệm: vì các triệu chứng của bệnh viêm phổi kẽ sẽ nặng lên khi hoạt động, bác sĩ có thể đánh giá chức năng phổi; nội soi phế quản... có thể giúp ích cho chẩn đoán bệnh.
Bệnh viêm phổi kẽ gây ra bởi chất độc hoặc thuốc đôi khi có thể tạm ngừng phát triển khi không còn tiếp xúc với các chất đó. Nhưng ở một số trường hợp thì ít có triển vọng vì các phương pháp điều trị bằng thuốc hiện hành có thể có tác dụng phụ nghiêm trọng và thường không hiệu quả.
Điều trị cho bệnh phổi kẽ thường là sự kết hợp của các loại thuốc sau đây:
Các biện pháp điều trị khác: