Nhược cơ được coi là một bệnh Thần kinh cơ - tự miễn dịch dẫn đến yếu cơ hoặc suy nhược cơ từng đợt, các cơ vân hoạt động chóng mỏi. Bệnh thường đi kèm với các bất thường của tuyến ức. Nữ bị nhiều hơn nam, thường phổ biến ở phụ nữ trẻ. Đôi khi nó đi kèm với một khối u của tuyến ức (thymoma).
Triệu chứng nhược cơ thay đổi trong ngày (chiều nặng hơn sáng, nghỉ ngơi thì đỡ, vận động nhiều thì nặng hơn) và bao gồm: sụp mi; Yếu cơ chân tay; Nhìn đôi; Nói lắp; Khó nuốt.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Các xét nghiệm sau đây được thực hiện để xác định chẩn đoán: điện tâm đồ, kháng thụ thể acetylcholine, xét nghiệmTensilon (edrophonium). Chụp cắt lớp vi tính ngực hoặc chụp cộng hưởng từ có thể được thực hiện để tìm kiếm một khối u tuyến ức (thymoma).
Không có phương thức chữa trị khỏi hẳn bệnh và điều trị nhằm giảm bớt sự hoạt động yếu kém của các cơ. Các loại thuốc để làm tăng lượng acetylcholine tại cơ bắp thụ thể được chỉ định (neostigmine Pyridostigmine). Các loại thuốc để ức chế hệ thống miễn dịch có thể được đề xuất (prednisone, azathioprine, cyclosporine, mycophenolate mofetil). Các triệu chứng có thể khác nhau. Các triệu chứng nghiêm trọng có thể được điều trị bằng huyết tương hoặc globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch.
Nhược cơ được coi là một bệnh Thần kinh cơ - tự miễn dịch dẫn đến yếu cơ hoặc suy nhược cơ từng đợt, các cơ vân hoạt động chóng mỏi.
Bệnh thường đi kèm với các bất thường của tuyến ức. Nữ bị nhiều hơn nam. Theo các nghiên cứu khác nhau, tỉ lệ mắc bệnh trong dân cư vào khoảng 0,5-5/100.000.
Bình thường, acetylcholine (Ach) được tổng hợp ở đầu tận cùng của dây thần kinh vận động và được giữ trong các nang (quanta), mỗi nang chứa khoảng 10.000 phân tử Ach. Khi một kích thích đi tới đầu tận cùng dây thần kinh vận động, nó sẽ làm cho khoảng 150-200 nang giải phóng ra Ach (nếu các kích thích lặp đi lặp lại, số Ach giải phóng ra sau mỗi kích thích sẽ giảm dần, hiện tượng này được gọi là hiện tượng "giảm Ach tiền sinap"). Các Ach giải phóng ra sẽ kết hợp với thụ cảm thể Ach (achetylcholine receptor - Achr) ở màng sau sinap thần kinh-cơ. Việc kết hợp này làm mở các kênh trong Achr và cho các cation (chủ yếu là Na+) đi vào gây khử cực ở màng sau sinap thần kinh cơ. Nếu sự khử cực này đủ lớn thì sẽ gây ra một điện thế hoạt động để làm co cơ. Quá trình này kết thúc nhanh chóng bằng việc Ach tách ra khỏi Achr và bị thuỷ phân bởi men cholinesterase. Lúc này sinap thần kinh cơ lại sẵn sàng tiếp nhận kích thích mới để quá trình co cơ tiếp diễn.
Một đặc điểm nổi bật về triệu chứng lâm sàng của bệnh nhược cơ là: triệu chứng nhược cơ thay đổi trong ngày (chiều nặng hơn sáng, nghỉ ngơi thì đỡ, vận động nhiều thì nặng hơn).
Bệnh nhân bị nhượccơ tự miễn cần có hiểu biết để tránh hay loại bỏ những nguyên nhân làm bệnhnặng thêm: không tự ý dùng các thuốc quinin, quinidin, chẹn beta, kháng sinhnhóm aminoside, colistine, thuốc giãn cơ... Trường hợp đang dùng mà thấy nhượccơ nặng lên thì phải ngưng ngay và báo cho bác sĩ biết.
Mọi người và bệnhnhân nhược cơ phải phòng tránh và điều trị tích cực các bệnh nhiễm khuẩn bằngcách đeo khẩu trang khi ở nơi công cộng, rửa tay sau khi tiếp xúc với đồ vật. Phòngngừa các chấn thương như tai nạn giao thông, tai nạn lao động bằng việc đội mũbảo hiểm và dùng các phương tiện bảo hộ lao động...
Trong thực tế điều trị, các biện pháp trên được sử dụng kết hợp với nhau một cách hợp lý để đem lại hiệu quả điều trị tốt nhất đối với từng bệnh nhân cụ thể.
Các thuốc này có tác dụng ức chế men cholinesterase (men này có tác dụng tách Ach ra khỏi các Achr ở màng sau sinap thần kinh cơ và thuỷ phân các Ach đó), vì vậy làm cho các phân tử Ach không bị phá huỷ hết ngay và duy trì được tác dụng của Ach lên các thụ cảm thể của nó ở màng sau sinap thần kinh-cơ, từ đó duy trì được khả năng co cơ.
Thường dùng các thuốc như Prostigmin, Mytelase, Mestinon...
Cần chú ý là khi dùng quá liều các thuốc kháng cholinesterase có thể gây lên cơn cường cholin. Triệu chứng của cơn cường cholin cũng rất giống cơn nhược cơ nên có thể gây nhầm lẫn trong điều trị cấp cứu.
Có tác dụng ức chế các phản ứng miễn dịch tạo ra các tự kháng thể trong bệnh nhược cơ (tự kháng thể kháng Achr...).
Các thuốc ức chế miễn dịch thường được dùng nhất là:
Có tác dụng lọc bỏ các tự kháng thể cũng như các thành phần bổ thể trong huyết tương của bệnh nhân, nhờ đó giảm được tác dụng của chúng trong việc gây nên các triệu chứng của bệnh nhược cơ. Đứng về khía cạnh nào đó thì phương pháp này cũng được coi là một liệu pháp ức chế miễn dịch.
Tiến hành lấy máu bệnh nhân (thường lấy làm nhiều lần trong mỗi đợt điều trị) và lọc bỏ các thành phần huyết tương, chỉ giữ lại các thành phần hữu hình của máu để sau đó truyền trở lại cho bệnh nhân.
Mục đích cơ bản của điều trị ngoại khoa bệnh nhược cơ là mổ cắt bỏ tuyến ức.
Trong khi thực hiện các phương pháp điều trị nói trên, phải luôn kết hợp với các biện pháp sau: