Bệnh sán máng (còn gọi là bilharzia, bilharziosis hay sốt ốc) là một bệnh do nhiễm ký sinh trùng, gây ra bởi một số loài sán thuộc giống Schistosoma. Mặc dù tỷ lệ tử vong do bệnh này rất thấp, song bệnh sán máng thường diễn tiến mạn tính, và có thể gây tổn thương nhiều cơ quan phủ tạng cơ thể, trên trẻ em chúng gây chậm phát triển và trì trệ về tinh thần, nhận thức. Thể sán máng trên đường tiết niệu có liên quan đến tăng nguy cơ cao ung thư bàng quang trên người trưởng thành.
Bệnh rất hay gặp ở châu Á, châu Phi và khu vực Nam Mỹ, đặc biệt ở những vùng có nhiều ốc nước ngọt - điều kiện và vật chủ trung gian gây bệnh sán máng. Bệnh sán máng tác động đến nhiều người tại các quốc gia đang phát triển, đặc biệt trẻ em hay mắc phải do bơi lội hoặc chơi đùa trong các vùng nước nhiễm mầm bệnh.
Triệu chứng thay đổi tùy theo loại và mức độ nhiễm trùng. Triệu chứng ban đầu: ngứa và phát ban. Nhiễm sán máng nặng : sốt, ớn lạnh, hạch to, sưng gan và lá lách, đi tiểu đau, nước tiểu có máu, đau bụng, tiêu chảy (có thể có máu).
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Nhiễm sán máng được xác nhận bằng cách xác định trứng sán trong nước tiểu, phân hay một mẫu sinh thiết. Xét nghiệm kháng thể cũng được tiến hành. Các xét nghiệm khác có thể được thực hiện để xác định những thiệt hại do nhiễm trùng.
Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), chụp cộng hưởng từ (MRI), điện tâm đồ (EKG), xét nghiệm lipase, siêu âm, chụp x-quang. Có thể bổ sung: phân tích phân, sinh thiết, huyết thanh học.
Bệnh sán máng được điều trị một cách dễ dàng bằng thuốc praziquantel (PZQ) đường uống, liều duy nhất và có thể dùng hàng năm. N
Bệnh sán máng (còn gọi là bilharzia, bilharziosis hay sốt ốc) là bệnh nhiễm ký sinh trùng, gây ra bởi một số loài sán thuộc giống Schistosoma.
Mặc dù tỷ lệ tử vong do bệnh này rất thấp song bệnh sán máng thường diễn tiến mạn tính, có thể gây tổn thương nhiều cơ quan phủ tạng của cơ thể, trên trẻ em chúng gây chậm phát triển và trì trệ về tinh thần, nhận thức.
Thể sán máng trên đường tiết niệu có liên quan đến tăng nguy cơ cao ung thư bàng quang trên người trưởng thành. Sán máng là nguyên nhân thứ 2 về bệnh ký sinh trùng gây suy giảm nền kinh tế xã hội, đứng sau sốt rét.
Sán máng là một bệnh mạn tính. Nhiều ca nhiễm ký sinh trùng không triệu chứng, thiếu máu nhẹ và suy dinh dưỡng là các dấu chứng hay gặp tại các vùng lưu hành bệnh. Nhiễm sán máng cấp tính (gọi là sốt Katayama's fever) có thể xảy ra vài tuần sau khi nhiễm bệnh đầu tiên, đặc biệt bởi loài S. mansoni và S. japonicum. Đặc điểm lâm sàng bao gồm:
Phòng bệnh tốt nhất là dựa vào việc loại bỏ các ốc nước ngọt trú tại nước ngọt, là các ổ chứa tự nhiên của bệnh sán máng. Acrolein, sulfate đồng, niclosamide có thể dùng để loại trừ. Các nghiên cứu gần đây cho thấy có thể phòng chống được quần thể ốc nhờ vào sự tồn tại và gia tăng các quần thể tôm cũng như can thiệp vào môi trường sinh thái, tuy nhiên cũng nên cẩn thận khi can thiệp đến môi trường.
Bệnh sán máng được điều trị một cách dễ dàng bằng thuốc praziquantel (PZQ) đường uống, liều duy nhất và có thể dùng hàng năm. Như các bệnh do ký sinh trùng khác, hiện có nhiều nghiên cứu về vaccine phòng bệnh sán máng. WHO đã đưa ra hướng dẫn cho điều trị cộng đồng về bệnh sán máng dựa trên các tác động của bệnh trên trẻ em tại các làng có bệnh lưu hành.