Mụn cóc sinh dục được gây ra bởi Virus Human Papilloma (HPV), thường qua đường tình dục. Có nhiều loại HPV có thể lây nhiễm tại các khu vực bộ phận sinh dục của nam và nữ, một số cũng có thể lây nhiễm trong miệng và họng. Virus HPV lây nhiễm khi quan hệ tình dục không an toàn với người nhiễm bệnh và có thể lây truyền ngay cả khi người bị nhiễm bệnh không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của virus. Đôi khi có thể mất nhiều năm để phát triển các triệu chứng sau khi bị nhiễm virus. Thật không may hầu hết mọi người không biết họ bị nhiễm virus vì các triệu chứng ban đầu có thể là rất nhỏ.
Các u nhỏ bề mặt thường sần sùi,có thể được tìm thấy trên miệng, âm đạo, âm hộ, dương vật, bẹn, hoặc đùi.
Thực hiện khai thác bệnh sử và khám thực thể.Sinh thiết da cũng có thể được chỉ định.
Mục đích điều trị bao gồm phá hủy tổn thương bằng phương pháp tại chỗ, loại bỏ yếu tố thuận lợi, tăng sức đề kháng, điều trị bạn tình.Điều trị bao gồm điều trị nội khoa: imiquimod / Aldara), podofilox / Condylox), hay axit tricloaxetic; và / hoặc điều trị phẫu thuật: phương pháp áp lạnh, đốt điện, điều trị bằng laser hoặc phẫu thuật cắt bỏ.
Mụn sinh dục tác động tới khoảng 5,5 triệu người Mỹ mỗi năm.
Như tên gọi, mụn sinh dục ảnh hưởng tới mô ẩm ở vùng sinh dục. Chúng có thể trông giống các nốt sưng nhỏ, màu thịt hoặc giống như hoa lơ. Đôi khi mụn có đường kính chỉ 1-2mm.
Trong trường hợp khác, mụn tăng sinh thành từng đám, có thể khá lớn.
Ở phụ nữ, mụn sinh dục có thể mọc ở âm hộ, thành âm đạo, vùng giữa bộ phận sinh dục ngoài và hậu môn (đáy chậu), và cổ tử cung. Ở nam giới, mụn có thể thấy trên đầu hoặc gốc dương vật, bìu hoặc hậu môn. Mụn cũng có thể mọc ở miệng hoặc họng của người quan hệ tình dục bằng miệng với người bị bệnh.
Mặc dù có thể điều trị được, mụn sinh dục là một bệnh nặng. Virus gây bệnh (papillomavirus người - HPV), gây ung thư cổ tử cung. Bệnh cũng liên quan tới các loại ung thư sinh dục khác.
Tác nhân gây bệnh là vi rút thuộc nhóm PAPOVA (Papillome polyform vacuolization), type 6, 11 thường gặp nhất. Các type 16, 18, 31, 33, 35 thường phối hợp gây loạn sản hoặc ung thư cổ tử cung. Đường lây truyền chủ yếu thông qua tiếp xúc tình dục, dịch tiết hoặc tiếp xúc da. Ở trẻ sơ sinh, lây truyền có thể xảy ra trong lúc sinh. Yếu tố nguy cơ là do vệ sinh kém, bộ phận sinh dục thường ẩm ướt, bao quy đầu dài, viêm âm hộ âm đạo, suy giảm miễn dịch, đa số kèm với các bệnh hoa liễu khác.
Mụn cơm là những nốtsùi nhỏ lành tính trên da do một loại virus gọi là papillomavirus người (HPV)gây ra. Virus khiến cho các tế bào ở lớp ngoài cùng của da tăng sinh nhanh. Có ngườibị mụn cơm do HPV, còn bị một khiếm khuyết về gen khiến cho các nốt sùi mào gàmọc khắp thân thể và không ngừng tăng nhanh về kích thước và được mệnh danh là"người cây". Mụn cơm khác với nốt ruồi, không gây ung thư và thườngtự khỏi. Tuy nhiên, có những người không khỏi được và để lại những hậu quảnghiêm trọng, không những ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn ảnh hưởng tới sinh hoạt, lây lan cho người tiếp xúc với họ, nhất là quađường tình dục.
Biện pháp phòng ngừa chủ động là sử dụng vắc-xin. Hiện nay, loại vắc-xin tứ giá Gardasil ngừa HPV type 6, 11, 16, 18 dùng cho phụ nữ từ 9-26 tuổi có thể phòng ngừa bị sùi mào gà do 2 chủng HPV6, 11 gây ra. Tiêm bắp với 3 liều 0,5ml cách nhau theo lịch tiêm 0, 2, 6 tháng.
Chủ yếu là phá hủy tổn thương bằng phương pháp tại chỗ, loại bỏ yếu tố thuận lợi, tăng sức đề kháng, điều trị bạn tình.
Tùy theo vị trí và độ lớn của sang thương, có thể chọn 1 trong các cách điều trị sau:
Dung dịch Podofilox 0.5% hoặc gel x 2 lần/ ngày x 3 ngày, tiếp theo 4 ngày không điều trị. Có thể lặp lại khi cần thiết (4 đợt). Điều kiện: tổn thương < 10 cm2, chỉ dùng cho những tổn thương nhỏ ở âm hộ, chấm mỗi tuần 1 lần và phải rửa sạch sau 1-3 giờ, dùng < 0.5ml/ ngày.
Imiquimod 5% cream: bôi buổi tối trước ngủ, 3 lần/ tuần cho đến khi sạch sang thương (tối đa 16 tuần). Rửa sang thương với xà phòng và nước sau khi bôi thuốc 6-10 giờ.
Podophyllin resin 10%-25% trong hỗn hợp cồn benzoin. Dùng một lượng nhỏ bôi lên tổn thương. Có thể lặp lại mỗi tuần, nếu cần thiết, tránh biến chứng rối loạn sự hấp thu và nhiễm độc, 2 hướng dẫn quan trọng: Liều < 0.5 ml hoặc tổn thương < 10 cm2. Tổn thương đang điều trị không hở. Nên rửa tổn thương sau khi thoa thuốc 1- 4 giờ để làm giảm kích thích tại chỗ.
Trichloroacetic acid (TCA) hoặc Bichloroacetic acid (BCA) 80%-90% chỉ dùng 1 lượng nhỏ bôi lên sang thương làm cho tế bào phồng lên. Nếu dùng lượng nhiều, vùng đó phải được thoa bằng phấn Tale, sodium bicarbonate hoặc xà phòng để loại bỏ phản ứng với acid. Điều trị này có thể lặp lại hằng tuần.
Phương pháp làm lạnh: bằng tuyết CO2hoặc Nitơ lỏng. Lặp lại 1-2 tuần.
Điều trị phẫu thuật: cắt bỏ tiếp tuyến đi sát gần, nạo bằng thìa hoặc đốt bằng tia Laser CO2, đốt điện.