Loạn dưỡng cơ là một nhóm bệnh cơ di truyền hiếm gặp, trong đó các sợi cơ đặc biệt dễ bị tổn thương. Các cơ, chủ yếu là các cơ xương (cơ chủ động) bị yếu dần. Đây là bệnh liên quan tới di truyền, hiện chưa có biện pháp chữa khỏi bệnh nhưng một số thuốc và liệu pháp có thể làm chậm diễn biến của bệnh.
Nhiều dấu hiệu và triệu chứng đặc trưng thay đổi tùy theo dạng loạn dưỡng cơ. Mỗi dạng bệnh lại khác nhau về tuổi khởi phát, phần cơ thể bị ảnh hưởng chủ yếu và tốc độ tiến triển bệnh. Nhìn chung bao gồm:Yếu cơ; Mất điều vận rõ ràng; Cơ biến dạng dần, dẫn đến cứng khớp và mất vận động; Các khớp xương tê cứng; Té ngã thường xuyên
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Các xét nghiệm khác có thể được thực hiện để xác định chẩn đoán bao gồm: xét nghiệm máu, điện cơ đồ, siêu âm, sinh thiết cơ, và xét nghiệm di truyền.Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP), siêu âm
Hiện chưa có cách chữa khỏi loạn dưỡng cơ. Điều trị phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng và bao gồm các loại thuốc cho người suy nhược cơ bắp: mexiletin (Mexitil), phenytoin (Dilantin, Phenytek), baclofen (Lioresal), Dantrolene (Dantrium) và carbamazepine (Tegretol). Steroid và các thuốc ức chế miễn dịch đôi khi được sử dụng để làm giảm sự phá hủy cơ bắp. Phương pháp điều trị khác bao gồm vật lý trị liệu, Các thiết bị trợ giúp và phẫu thuật.
Loạn dưỡng cơ là một nhóm bệnh cơ di truyền hiếm gặp, trong đó các sợi cơ đặc biệt dễ bị tổn thương. Các cơ, chủ yếu là các cơ xương (cơ chủ động) bị yếu dần.
Trong giai đoạn cuối của loạn dưỡng cơ, mỡ và mô liên kết thường thay thế các sợi cơ. Trong một số dạng loạn dưỡng cơ, cơ tim, các cơ trơn (cơ thụ động) và các cơ quan khác bị ảnh hưởng.
Có 9 dạng loạn dưỡng cơ chính. Những dạng loạn dưỡng cơ hay gặp nhất là do thiếu hụt di truyền một protein cơ có tên là dystrophin. Những dạng bệnh này gọi là bệnh dystrophin, bao gồm:
Những dạng loạn dưỡng cơ chính khác gồm:
Đây là bệnh liên quan tới di truyền, hiện chưa có biện pháp chữa khỏi bệnh nhưng một số thuốc và liệu pháp có thể làm chậm diễn biến của bệnh.
Loạn dưỡng cơ là bệnh di truyền do khiếm khuyết gen. Mỗi dạng bệnh được gây ra bởi một đột biến gen đặc trưng cho dạng bệnh đó.Loạn dưỡng cơ Duchenne và Becker di truyền từ mẹ sang con trai theo kiểu di truyền lặn. Gen khiếm khuyết gây loạn dưỡng cơ Becker và Duchenne nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X. Người phụ nữ tuy mang gen gây bệnh trên nhiễm sắc thể X của mình nhưng chỉ đơn thuần là người mang gen và không biểu hiện dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh. Trong quá trình thụ tinh, noãn mang nhiễm sắc thể X có chứa gen bệnh kết hợp với tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y và bé trai con của người được thừa hưởng gen này trên nhiễm sắc thể X có biểu hiện bệnh. Trong một số trường hợp loạn dưỡng cơ Becker và Duchenne, bệnh phát sinh từ một đột biến mới ở gen khác chứ không phải từ gen khiếm khuyết di truyền.
Loạn dưỡng cơ trương lực được di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường. Nếu cha hoặc mẹ mang gen khiếm khuyết gây loạn dưỡng trương lực thì có 50% khả năng rối loạn này sẽ được di truyền sang con.
Một số dạng loạn dưỡng cơ ít gặp hơn được di truyền theo kiểu giống như loạn dưỡng cơ Duchenne và Becker. Một số dạng loạn dưỡng cơ khác có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và ảnh hưởng như nhau tới cả nam và nữ, còn một số dạng khác lại cần có gen khiếm khuyết từ cả cha và mẹ.
Các dấu hiệu bệnh thay đổi theo dạng loạn dưỡng cơ. Nhìn chung bao gồm:
Những dấu hiệu và triệu chứng của loạn dưỡng cơ Duchenne bao gồm:
Những dấu hiệu và triệu chứng của loạn dưỡng cơ Duchenne thường xuất hiện khi trẻ từ 2-5 tuổi. Vào cuối tuổi ấu thơ, phần lớn trẻ bị dạng loạn dưỡng cơ này không thể đi lại được. Đa số tử vong vào cuối tuổi vị thành niên hoặc ngoài 20 tuổi, thường do viêm phổi, yếu cơ hô hấp hoặc các biến chứng tim. Một số người bị loạn dưỡng cơ Duchenne có biểu hiện vẹo cột sống.
Hiện chưa có cách chữa khỏi loạn dưỡng cơ. Liệu pháp gen có thể là cách điều trị để làm ngừng tiến triển của một số dạng loạn dưỡng. Biện pháp điều trị hiện nay giúp ngăn ngừa hoặc làm giảm biến dạng khớp và cột sống, cho phép bệnh nhân duy trì được khả năng vận động càng lâu càng tốt. Ðiều trị có thể bao gồm lý liệu pháp, thuốc, các thiết bị trợ giúp và phẫu thuật.
Khi loạn dưỡng cơ tiến triển và cơ yếu đi thì khớp có thể bị cứng, gân có thể bị ngắn, hạn chế độ linh hoạt và cử động của khớp. Cứng khớp có thể xảy ra ở các khớp bàn tay, bàn chân, khuỷu tay, đầu gối và khớp háng.
Mục tiêu của lý liệu pháp là đưa ra các bài tập vận động phù hợp để giữ cho khớp càng linh hoạt càng tốt, làm chậm tiến triển của cứng khớp và làm giảm hoặc làm chậm biến dạng cột sống. Tắm nóng (thủy trị liệu) cũng giúp duy trì tầm cử động của khớp.
Các bác sĩ thường kê đơn những thuốc sau để điều trị một số dạng loạn dưỡng cơ: