Van hai lá nằm giữa tâm nhĩ trái và tâm thất trái, có chức năng giữ dòng máu đi theo một chiều từ tâm nhĩ trái vào tâm thất trái. Khi van mở ra, máu chảy từ tâm nhĩ trái xuống tâm thất trái. Khi đóng, van giúp ngăn máu chảy theo chiều ngược lại. Khi bị hẹp, van hai lá hạn chế sự lưu thông của dòng máu. Hẹp van hai lá thường là biến chứng của bệnh sốt thấp khớp. Các nguyên nhân khác bao gồm bệnh tim bẩm sinh và khối u trên van. Hẹp van hai lá nặng có thể gây ra suy tim, phì đại tim và rung nhĩ.
Các triệu chứng có thể phát triển dần dần và bao gồm: đau ngực, ho, khó thở, mệt mỏi, nhiễm trùng đường hô hấp, thường gặp như viêm phế quản, tim đập nhanh, đánh trống ngực, sưng chân, khó thở.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Có thể nghe thấy tiếng thổi tim. Siêu âm tim, siêu âm tim qua thực quản (TEE), MRI và / hoặc chụp động mạch vành. Có thể bổ sung: Điện tâm đồ (EKG)
Phương pháp điều trị căn cứ vào triệu chứng và mức độ tổn thương tim và phổi. Đối với những người có triệu chứng nhẹ, các bác sĩ chỉ theo dõi tim. Điều trị bao gồm: các loại thuốc giúp cải thiện chức năng tim, thông van tim, phẫu thuật thay thế van tim.
Các loại thuốc được sử dụng bao gồm thuốc lợi tiểu, thuốc giãn mạch và chống loạn nhịp. Kháng sinh có thể được sử dụng để phòng ngừa nhiễm trùng van tim trước khi làm răng hay tiến hành các thủ thuật đường tiêu hóa, đường tiết niệu.
Van tim nhân tạo được làm từ các mô hoặc kim loại. Van kim loại có tuổi thọ dài hơn nhưng bệnh nhân phải sử dụng chất làm loãng máu suốt đời như warfarin / Coumadin. Van tim được làm từ mô của lợn, trâu, bò hoặc mô tử thi người không đòi hỏi phải sử dụng thuốc làm loãng máu nhưng có tuổi thọ ngắn hơn, có thể phải thay thế.
Van hai lá là van tim nằm giữa tâm nhĩ trái và tâm thất trái. Khi bị hẹp lại vì bất cứ lý do gì, van hai lá của tim mở không đủ, khiến dòng chảy của máu từ tâm nhĩ trái xuống tâm thất trái bị tắc nghẽn.
Hẹp van hai lá là một bệnh khá phổ biến ở nước ta, chiếm khoảng 40,3% các bệnh tim mắc phải. Bệnh được phát sinh ở loài người từ khi bắt đầu sống thành từng quần thể do điều kiện sinh sống thấp kém, chật chội thiếu vệ sinh dễ gây lây nhiễm bệnh. Từ năm 1887, tác giả Bouillaud rồi Sokolski đã mô tả căn bệnh này. Đến năm 1920, Duckett Jones (Hoa kỳ) đã nghiên cứu bệnh này và đến năm 1944 ông mới công bố bảy tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh. Cũng trong thời gian này, Cutter và Levine Phillipe (Hoa kỳ) tìm cách phẫu thuật hẹp van hai lá, còn tại nước Anh, đã mổ được hẹp van hai lá. Giai đoạn này bệnh hẹp van hai lá là bệnh tim mạch phổ biến nhất, gây tàn phế và tử vong nhiều. Từ năm 1944, việc phát minh ra thuốc penixillin diệt các loại liên cầu và đặc biệt tạo ra loại penixillin chậm (benzathyl penixillin) có tác dụng phòng ngừa bệnh này, do đó đến nay ở nhiều nước phát triển, bệnh thấp tim gần như mất hẳn.
Đa số trường hợp hẹp van 2 la đều là do di chứng thấp tim dù 50% bệnh nhân không có tiền sử thấp khớp. Đợt thấp tim cấp thường hay gây ra hở van 2 lá. Sau một số đợt thấp tim tái phát, hẹp van 2 lá bắt đầu xuất hiện, tiếp tục tiến triển nhiều năm cho tới khi biểu hiện triệu chứng. Thương tổn chính là thâm nhiễm xơ, dày lá van, dính mép van, dính và co rút dây chằng, cột cơ góp phần gây nên hẹp van 2 lá. Xuất hiện vôi hóa lắng đọng trên lá van, dây chằng, vòng van, tiếp tục làm hạn chế chức năng bình thường của van. Những thương tổn này tạo thành van 2 lá hình phễu như hình miệng cá mè.
Toàn thân: Nếu mắc bệnh trước tuổi dậy thì, bệnh nhân kém phát triển thể chất gọi là 'lùn hai lá' (nanisme mitral). Nếu xảy ra sau tuổi dậy thì trẻ phát triển gần như bình thường.
Cơ năng
Thực thể: Nghe tim là chủ yếu, có thể nghe khi nằm ngửa, nằm nghiêng trái hoặc có khi phải để bệnh nhân làm động tác gắng sức. Hẹp van hai lá điển hình thường nghe được các dấu chứng sau theo tần suất hay gặp:
Cũng có những trường hợp hẹp van hai lá khi khám bệnh không nghe được gì mà nhờ biến chứng và nhờ cận lâm sàng nhất là siêu âm gọi là hẹp van hai lá 'câm'.
Ngoài ra còn có thể thấy tình trạng rối loạn nhịp như ngoại tâm thu nhĩ, nhịp nhanh nhĩ, rung nhĩ là hay gặp hơn cả. Có thể có blốc nhánh phải không hoàn toàn.
Là phương tiện chẩn đoán xác định chính xác hẹp van hai lá, nhất là khi hẹp van hai lá trên lâm sàng không phát hiện được. Siêu âm còn cho phép ta đánh giá van và tổ chức dưới van có dày không để quyết định thay van hay tách van.
Trong hẹp đơn thuần:
Kiểu một bình diện: Van lá van trước và sau dính vào nhau nên di động song song cùng chiều, các lá van dày lên. Van có dạng hình cao nguyên hay giày trượt tuyết. Độ dốc tâm trương EF bị giảm. Nếu hẹp khít độ dốc tâm trương có thể giảm <15 mm/s. Đường kính nhĩ trái tăng, dường kính thất phải tăng, vách thất phải dày. Có thể thấy được dấu tăng áp động mạch phổi gián tiếp.
Siêu âm 2 chiều: Xác định được sự di động của van, đo kích thước buồng tim đồng thời đo được diện tích lỗ van.
Siêu âm Doppler có thể phát hiện được hẹp van hai lá có kết hợp với các tổn thương khác để có thái độ xử trí thích đáng. Đồng thời đo áp lực động mạch phổi, theo dõi áp lực động mạch phổi trước và sau điều trị.
Kết hợp với điện tâm đồ để đánh giá mức độ hẹp của van dựa vào khoảng Q - T1 và khoảng T2 - CM. Nếu Q - T1 càng dài và T2 - CM càng ngắn thì hẹp van hai lá khít, hiện nay thăm dò này ít sử dụng do đã có siêu âm tim.
Thấy được sự chêch lệch áp tâm trương giữa nhĩ trái và thất trái, dấu hiệu đặc trưng của hẹp hai lá. Hiện nay, siêu âm có tính chất quyết định nên ít sử dụng phương tiện này. Người ta chỉ sử dụng khi có nghi ngờ có hở hai lá hoặc các bệnh van động mạch chủ phối hợp (hiếm).
Nếu bệnh nhân mới bị thấp tim, phải tích cực điều trị thấp tim: chống viêm nhiễm (corticoid, aspirin, penicillin...).
Khuyên bệnh nhân nữ tránh có thai.
Khi chuyển dạ đẻ mới phát hiện hẹp hai lá, cần giúp sản phụ đẻ sớm bằng forcep hay phẫu thuật để tránh gắng sức lúc rặn đẻ.
Phòng thấp tái phát bằng benzathyl penicillin 1,2 triệu đơn vị, 15-20 mỗi ngày, tiêm bắp sâu sau khi thử test.
Đề phòng bội nhiễm phổi, Osler bằng kháng sinh penicillin nhanh hoặc erythromycin 0,5g trước các can thiệp: nhổ răng, chích nhọt ngoài da... Khi có dấu viêm tĩnh mạch chi dưới phòng tắc động mạch phổi bằng cách đặt lưới lọc tĩnh mạch chủ dưới.
Chỉ có tác dụng tốt khi hẹp van hai lá mức độ nhẹ và trung bình. Nếu hẹp khít, với diện tích lỗ van <1,5 cm2thì điều trị ngoại khoa mới có tác dụng.
Nếu xuất hiện các triệu chứng trên nên ngừng digital và cho tăng cường thêm kali bằng đường tĩnh mạch hoặc đường uống, chú ý bổ sung thêm Mg++.
Phòng thấp tái phát bằng Benzathylpenicilin 1,2 triệu đơn vị mỗi 15-20 ngày, tiêm bắp sâu sau khi thử test.
Ngoài ra đề phòng bội nhiễm phổi hoặc Osler bằng kháng sinh penicilin nhanh hoặc erythromycin 0,5g trước các can thiệp như nhổ răng, trích nhọt ngoài da vv... Khi có dấu hiệu viêm tĩnh mạch chi dưới có thể phòng tắc động mạch phổi bằng cách đặt lưới lọc tĩnh mạch chủ dưới.
Biến chứng khi nong van và sau khi nong:
Biến chứng sau khi thay van: Ngoài các biến chứng như nong van còn có thêm các biến chứng.
Điều trị nong van hai lá hay phẫu thuật tim kín hay hở cần tiếp tục điều trị phòng thấp, phòng Osler, điều trị chống đông, suy tim thì mới kéo dài cuộc sống của bệnh nhân.