eDoctor
eDoctor
eDoctorChia sẻ

Gút

BệnH gút xảy ra do sự mất cân bằng giữa sản xuất và bài tiết acid uric, gây tăng axit uric trong cơ thể . Tinh thể acid uric tích tụ trong các khớp dẫn đến viêm khớp cấp tính. Viêm khớp xảy ra thường xuyên và ảnh hưởng đến hầu hết các ngón chân, bàn chân, mắt cá chân, đầu gối và bàn tay. Cơn đau có thể nặng ngay cả khi các khớp này chịu sự va chạm nhẹ.

TRIỆU CHỨNG

Đau, sưng, nóng đỏ khớp.

CHẨN ĐOÁN

Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm máu để đo nồng độ acid uric, Chụp X-quang, Xét nghiệm dịch khớp. Xét nghiệm máu toàn bộ (CBC), xét nghiệm bảng chuyển hóa toàn diện (CMP)

ĐIỀU TRỊ

Các thuốc chống viêm không steroid / NSAIDs (indomethacin / Indocin, ibuprofen / Motrin), colchicine, thuốc giảm đau như acetaminophen (Tylenol), và / hoặc steroid.Thay đổi lối sống (như giảm cân, không uống rượu, hạn chế ăn thịt đỏ và hải sản). Ngoài ra, probenecid (Benuryl), allopurinol (Zyloprim), febuxostat (Uloric) là những thuốc giúp giảm nồng độ axit uric và ngăn chặn các cơn gút.

Tổng quan

Bệnh gút (tiếng Anh là gout, tiếng Việt hay gọi bệnh gút, gọi theo âm Hán - Việt là thống phong), hay viêm khớp do gút, là một dạng viêm khớp được đặc trưng bởi cơn đau khớp dữ dội và đột ngột, kèm theo đó là sưng đỏ khớp.Lịch sử bệnh gút đã hơn 4000 năm, nhưng đến khoảng 400 năm trước công nguyên, Hyppocrates là người đầu tiên mô tả rõ một biểu hiện rất đặc trưng của bệnh là sưng tấy, nóng, đỏ và rất đau ở ngón chân cái (Podagra), ông còn gọi bệnh gút là "Vua của bệnh" và "bệnh của Vua" ("King of Diseases" and "Disease of Kings").

Thế kỷ thứ 2 sau công nguyên, dược sỹ Claudius Galen cũng là người có vai trò lớn trong lịch sử bệnh gút. Ông đã tìm ra mối liên hệ giữa chế độ ăn uống và bệnh gút và nhận thấy bệnh xuất hiện chủ yếu ở nam giới trung niên, đối với phụ nữ chỉ xuất hiện khi về già.

Thế kỷ thứ 6 sau công nguyên, Alexander of Tralles đã sử dụng colchicin để giảm đau các viêm khớp. Ở thời kỳ này, mặc dù thông tin y học còn hạn chế nhưng người Hi Lạp đã đưa ra phương pháp chẩn đoán và phương thức điều trị bệnh gút.

Antoni Van Leeuwenhoek (1632–1723), một trong nhiều nhà khoa học khám phá ra kính hiển vi, là người đầu tiên quan sát hình dạng của các tinh thể ở khớp sưng trong các cơn gút cấp, nhưng thành phần hóa chất trong tinh thể đó ông vẫn chưa tìm ra.

Năm 1683, Sydenham mô tả đầy đủ diễn biến lâm sàng của cơn gút cấp, và đến cuối thế kỷ XIX, Schelle, Bargman và Wollaston mới tìm thấy vai trò của a-xít uric trong nguyên nhân gây bệnh, do đó bệnh gout còn được gọi là viêm khớp do a-xít uric. Phát hiện ra vai trò của a-xít uric trong bệnh gút có ý nghĩa to lớn trong chuẩn đoán, điều trị và phòng ngừa bệnh gút.

Hơn 4000 năm sau kể từ khi bệnh gút được phát hiện, nhà khoa học người Đức Emil Fischer đã chứng minh a-xít uric được tạo thành từ nguồn nội sinh trong cơ thể: đó chính là purin. Nhờ phát hiện điều này, ông đã được nhận giải Nobel danh giá.

Vào những năm 60 của thế kỷ XX, các nhà khoa học đã nghiên cứu sâu hơn về sinh học tế bào, cơ chế sinh lý bệnh của tình trạng tăng  a-xít uric máu và bệnh gút, vai trò quan trọng của tinh thể urat, tìm ra các nhóm thuốc điều trị bệnh dựa vào nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh cụ thể nên hiệu quả điều trị đã tăng rõ rệt. Y học ngày nay đã có thể kiểm soát tốt cơn gout cấp, ngăn ngừa các cơn viêm khớp tái phát, hạn chế biến chứng sỏi thận và các bệnh lý về thận.

Nguyên nhân

Bệnh gút do nhiều nguyên nhân gây nên, trong đó, chế độ ăn uống là một nguyên nhân gây bệnh và thúc đẩy bệnh gút phát triển.

Ngoài ăn uống thì hai yếu tố vô cùng quan trọng là sự rối loạn chuyển hóa a-xít uric và rối loạn quá trình đào thải a-xít uric ở thận.

Qua nghiên cứu, có tới 95% bệnh nhân gút có lượng a-xít uric (muối urat) đào thải trong 24 giờ ít hơn người bình thường, mặc dù nồng độ a-xít uric máu của họ cao hơn bình thường.

Nguyên nhân khác

Mặc dù hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân của rối loạn purin gây nên bệnh gút song nhiều khả năng là do những rối loạn tại gen. Bệnh gút được coi là bệnh lý rối loạn chuyển hóa purine ở người, làm tăng tổng hợp a-xít uric và/hoặc giảm thải a-xít uric ra ngoài, gây tăng a-xít uric trong máu, gây thêm một hoặc nhiều biểu hiện sau:

  • Viêm một khớp cấp (thường ở ngón chân cái) được gọi là cơn gút cấp.
  • Có các khoảng hoàn toàn khỏi giữa các đợt viêm khớp cấp.
  • Xuất hiện các tophi (u cục) ở khớp, quanh khớp, ở vành tai.
  • Có sỏi thận (sỏi urat), suy thận mạn.
  • Ở giai đoạn đầu, bệnh gút có những đặc điểm lâm sàng khá đặc trưng, đa số dễ nhận biết nếu được chú ý từ đầu:
  • Thường gặp ở nam giới (trên 95%), khỏe mạnh, mập mạp.
  • Thường bắt đầu vào cuối độ tuổi 30 và đầu độ tuổi 40, tuổi bắt đầu làm nên của những người đàn ông thành đạt.
  • Khởi bệnh đột ngột bằng một cơn viêm khớp cấp với tính chất: sưng, nóng, đỏ, đau dữ dội, đột ngột ở một khớp làm người bệnh rất đau đớn, không thể đi lại được. Hiện tượng viêm thường không đối xứng và có thể tự khỏi sau 3-7 ngày.
  • Trong giai đoạn cấp có thể kèm các dấu hiệu toàn thân như: sốt cao, lạnh run, đôi khi có dấu hiệu màng não (cổ cứng, nôn…).
  • Bệnh diễn biến từng đợt, giữa các cơn viêm cấp có những giai đoạn các khớp hoàn toàn hết đau, người bệnh tưởng mình khỏi bệnh.
  • Ở giai đoạn muộn, biểu hiện viêm ở nhiều khớp cả tay và chân, có thể đối xứng, xuất hiện những u cục ở nhiều nơi, đặc biệt quanh các khớp, bệnh diễn biến liên miên không rõ từng đợt, giữa các đợt viêm cấp các khớp vẫn đau nhức, dần dần gây biến dạng khớp, cứng khớp, teo cơ...
Phòng ngừa
  • Ăn uống điều độ, không nhịn đói, bỏ bữa, không dùng các chất kích thích như ớt, hạt tiêu, các loại dưa muối và cà muối.
  • Hạn chế tối đa ăn các loại thực phẩm như gan, tim, lưỡi động vật, nấm, trứng cá, kem, bánh ga tô có kem. Tránh ăn các đồ thịt cá rán, thịt chó, nước canh xương hầm, canh cá; tránh ăn một số loại rau quả như các loại đậu đỗ, súp lơ, các loại cà, củ cải.
  • Có thể ăn các loại thịt màu trắng như thịt lườn gà, thịt thỏ.
  • Không uống rượu, hạn chế uống bia, không uống nước chè, cà phê đặc và các đồ uống có ga.
  • Trong một công trình nghiên cứu, người ta thấy rằng ở nhóm người uống khoảng 1 lít bia trở lên trong 1 ngày có tỉ lệ bị gút cao gấp 2,5 lần so với nhóm người uống hạn chế.
  • Sữa và các sản phẩm của sữa như sữa chua; dưa chuột, dưa hấu... là các thức ăn tốt cho việc phòng và chữa bệnh gút.
  • Bánh mì, trứng, đa số các loại trái cây, rau quả (khoai tây, bí đao, bí đỏ, cải bắp, hành, tỏi... trừ cà chua) bệnh nhân gút có thể sử dụng.
  • Uống nhiều nước (2-3 lít/ngày), các loại nước khoáng có tỷ lệ chất khoáng thấp và có tính kiềm có tác dụng thải bớt lượng a-xít uric thừa trong cơ thể cũng rất tốt cho bệnh nhân gút (có thể uống 1-3 cốc/ngày trước bữa ăn 1 giờ trong giai đoạn tái phát của bệnh).
  • Điều chỉnh cân nặng về mức hợp lý, tập luyện các bài tập rèn sức bền có tác dụng tăng cường sức khỏe chung, giảm cân và điều hòa các quá trình trao đổi chất. Tuy nhiên cần nghỉ tập trong giai đoạn tái phát của bệnh.
Điều trị

Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) dùng để giảm đau, kháng viêm trong các cơn gout cấp tính. Gồm các thuốc như: indomethacin (Indocin) hoặc các thuốc bán tự do ở nhà thuốc như Ibuprofen (Advil, Motrin,…). Bác sĩ cũng có thể kê đơn cho bạn các kháng viêm steroid như prednisone. Tuy nhiên hãy cẩn thận với các thuốc này và tham vấn ý kiến bác sĩ của bạn về cách dùng và thời gian dùng (thường chỉ nên dùng từ 3-10 ngày), vì nếu điều trị kéo dài chúng có thể gây các biến chứng như viêm loét và xuất huyết dạ dày - tá tràng.

Trường hợp bạn bị cơn gout cấp, bác sĩ có thể cho bạn dùng colchicin hoặc tiêm cortisone thẳng vào khớp, đồng thời dùng các biện pháp điều trị ngăn ngừa nhằm hạ lượng a-xít uric trong máu của bạn.

Bệnh phổ biến
Tải ứng dụng để nhận thông báo Tin tức sức khỏe mới nhất
eDoctor - App StoreeDoctor -  Google Play

Bạn vẫn chưa tìm thấy thông tin mình cần?

Hãy để lại số điện thoại, chúng tôi sẽ tư vấn nhanh nhất cho bạn.