eDoctor
eDoctor
eDoctorChia sẻ

Dại

Bệnh dại là một bệnh do virus gây tử vong truyền sang người từ động vật bị nhiễm bệnh. Bệnh lây truyền chủ yếu do các chất tiết bị nhiễm, thường do vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại.

Dại là virus ái thần kinh, ảnh hưởng trực tiếp lên não, một khi các triệu chứng xuất hiện gần như luôn gây tử vong nên phòng ngừa và tiêm chủng của các bệnh nhân tiếp xúc với động vật bị nghi ngờ mắc bệnh dại là rất quan trọng.

TRIỆU CHỨNG

Bệnh nhân bị nhiễm virus bệnh dại thường không có biểu hiện gì cho đến trước lúc hấp hối: Sốt; Nhức đầu; Lo lắng, lú lẫn; Ảo giác; Khó nuốt; Khó ngủ; Chảy nước dãi

CHẨN ĐOÁN

Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Bệnh nhân có thể được chỉ định xét nghiệm máu để xác định có nhiễm virus dại hay không.

ĐIỀU TRỊ

Một khi các triệu chứng xuất hiện, xác suất tử vong là gần như tuyệt đối. Bởi vậy khi bị động vật cắn mà nghi ngờ nó có virus dại, bệnh nhân phải đến ngay các cơ sở y tế để làm sạch vết cắn và tiêm globulin miễn dịch bệnh dại xung quanh vết thương. Bệnh nhân cũng nên được tiêm phòng bệnh dại nhiều lần khác nhau trong suốt 2-4 tuần.

Tổng quan

Gây nhiễm:

Virus dại xâm nhập vào cơ thể người từ động vật bị dại qua vết cắn, vết xước, vết liếm trên lớp da, niêm mạc bị tổn thương. Ở một số súc vật ăn thịt, trong nước bọt của chúng có nhiều enzym hyaluronidaze là yếu tố có thể giúp cho virus dại lan toả nhanh hơn tới hệ thần kinh.Là một virus ái thần kinh, sau khi xâm nhập nó tồn tại, nhân lên tại vết thương từ vài giờ cho tới vài tuần. Sau đó nhanh chóng đi tới các đầu mút thần kinh cảm giác và vận động của hệ thần kinh ngoại biên rồi chuyển tới hệ thần kinh trung ương.Vì thế virus dại chỉ tiếp xúc thoáng qua với hệ miễn dịch, mặc dù gần đây có công trình cho rằng sự âm hoá virus dại khỏi hệ thần kinh qua kháng thể trung gian là có thể xảy ra.Khi đã có mặt ở trong nơron của hệ thần kinh ngoại biên, virus được vận chuyển trong acxon bằng dòng phản hồi của tế bào sợi acxon với tốc độ 0,3 mm/giờ tới hệ thần kinh trung ương, nơi nó tiếp tục được nhân lên.Phần cuống não bị nhiễm trước tiên, sau đó tới vùng dưới đồi và cuối cùng đến phần vỏ não bị tổn thương. Tuy nhiên, vào giai đoạn nhiễm cuối thì toàn bộ hệ thần kinh trung ương cũng như một số mô ngoài như tuyến nước bọt cũng bị nhiễm virus, nhưng cơ chế nhân lên cũng bắt đầu vào thời điểm nào thì chưa rõ.Khi xâm nhập và nhân lên trong tế bào thần kinh, virus dại gây tổn thương não tuỷ ở các mức độ nặng nhẹ mà biểu hiện lâm sàng sẽ khác nhau.

Ủ bệnh:

Thời kỳ ủ bệnh tương ứng với sự di chuyển và nhân lên của virus. Thời gian này dài hay ngắn tuỳ thuộc vào quãng đường phải đi qua từ nơi vết cắn đến thần kinh trung ương.Thời gian ủ bệnh trung bình là 30 - 90 ngày (80% trường hợp), có những trường hợp nhanh dưới 20 ngày (5 - 10% trường hợp) hoặc chậm hơn 3 tháng (7 - 20% trường hợp). Thậm chí kéo dài hơn cả năm (1,8% trường hợp). Thời gian ủ bệnh ngắn nhất được tìm thấy khi vết cắn ở đầu, mặt, tay và đặc biệt là đối với trẻ em.
Nguyên nhân
Nguyên nhân của bệnh là do virut dại (rabies virus) gây nên, nhưng bệnh thường chủ yếu là do các loài động vật bị mắc dại như chó, mèo…. rồi truyền nhiễm cho con người qua các vết cắn, vết xước…, và đây cũng chính là nguyên nhân chính có tỷ lệ phần trăm lây nhiễm cho con người cao nhất.
Nguyên nhân khác

Triệu chứng tiền lâm sàng:

Những dấu hiệu này lan rộng dọc theo hệ thần kinh và hệ bạch huyết. Đồng thời với các triệu chứng trên còn có một số triệu chứng khác kèm theo: bồn chồn, thổn thức, la hét, chán nản vô cớ.

Triệu chứng lâm sàng:

  • Thể co thắt:Đây là thể thường gặp nhất. Đặc điểm là co cứng, co thắt, co giật, run các cơ kể cả cơ ở mặt. Co thắt hô hấp và co thắt thanh quản là biểu hiện tổn thương hành tủy. Triệu chứng đặc trưng của bệnh là nhân lên cơn dại:
    • Sợ nước: bệnh nhân thường rất khát nhưng khi uống nước họ bị co thắt lồng ngực, bị ức chế thở và run cầm cập. Trạng thái này qua mau nhưng để lại ấn tượng kéo dài cho bệnh nhân, vì vậy họ không thiết uống nước mặc dù rất khát. Từ đó dẫn đến chỉ cần nhìn thấy 1 ly nước hoặc nghe tiếng nước chảy cũng sợ.
    • Sợ gió, sợ ánh sáng được mô tả tương tự. Tính cách bệnh nhân không bình thường, bệnh nhân bị phấn khích quá độ khi bị kích thích. Không phát hiện dấu hiệu mất tri thức.
    • Những cơn co thắt đầu tiên còn xa nhau, càng ngày càng mau và thường tử vong sau 3 - 4 ngày do ngất hoặc ngạt trong một cơn co thắt sợ nước hoặc sau một cơn hôn mê.
  • Thể liệt:Thể này hiếm gặp và kém điển hình hơn.Không có dấu hiệu phấn khích quá độ. Bệnh xuất hiện rất nhanh sau giai đoạn co thắt, run. Liệt có thể tiên phát và bắt đầu bằng liệt 1 chi hoặc 2 chi dưới rồi lan lên trên (hội chứng Landry) hoặc xuống dưới. Tử vong thường do ngạt hoặc ngất vào ngày thứ 4. Diễn biến bệnh không quá 4 - 10 ngày.
  • Thể cuồng:Bệnh nhân bị kích thích quá độ, có những phản ứng dữ tợn, người bệnh trở lên hung bạo. Vì vậy, bệnh nhân thường có những hành vi không bình thường như chống lại y lệnh của bác sĩ và những người quanh mình. Thể trạng suy sụp nhanh, hôn mê, ngất và chết.
Phòng ngừa
  • Người nuôi, buôn bán, giết mổ, vận chuyển kinh doanh chó, mèo cần thực hiện ‘ 5 không ’ :
    • Không nuôi chó, mèo chưa khai báo với chính quyền địa phương.
    • Không nuôi chó, mèo chưa tiêm phòng bệnh dại.
    • Không nuôi chó mèo thả rông ra ngoài nhà.
    • Không cho trẻ chơi với chó mèo và cắn người.
    • Không nuôi chó, mèo gây ô nhiễm môi trường.
  • Trách nhiệm của người nuôi chó :
    • Phải đăng ký số lượng chó nuôi với Trưởng ấp (trưởng thôn) hoặc Tổ trưởng dân phố.
    • Tiêm phòng dại định kỳ hàng năm của cơ quan thú y.
    • Thời điểm tiêm phòng:
      • Tiêm lần đầu cho chó con được 4 tuần tuổi.
      • Nếu chó con được sinh ra từ chó mẹ đã được tiêm phòng thì tiêm cho chó con vào lúc chó được 3 tháng tuổi và sau đó tiêm nhắc lại mỗi năm một lần.
    • Phải thường xuyên xích chó, nuôi chó trong nhà, không được thả rông ngoài đường. Ở thành phố, thị trấn, khu dân cư khi dắt chó ra nơi công cộng phải có dây xích, phải rọ mõm và có người dắt, không để chó đi lang thang ngoài đường, phố làm mất vệ sinh nơi công cộng.
    • Mỗi hộ gia đình chỉ nên nuôi 1 - 2 con chó để giữ nhà. Trong trường hợp nuôi nhiều (trên 5 con không kể chó mới sinh) phải có tờ trình về điều kiện nuôi và được cơ quan thú y địa phương xác nhận đủ điều kiện vệ sinh thú y.
    • Vệ sinh sạch sẽ chuồng nuôi.
    • Khi phát hiện chó, mèo có những biểu hiện bất thường, bỏ ăn hoặc ăn ít, sốt cao, hung dữ khác thường thì báo ngay cho nhân viên thú y cấp xã.
Điều trị
  • Điều trị nguyên nhân
  • Chăm sóc phần cơ thể bị liệt:
  • Luôn đặt chi ở tư thế sinh lý.
  • Xoa bóp, tập vận động sớm.
  • Đề phòng bị loét bằng cách thay đổi liên tục tư thế nằm, nằm đệm nước hoặc đệm không khí có ngăn.
  • Đề phòng nhiễm khuẩn thứ phát (đường hô hấp, tiết niệu...).
  • Chế độ dinh dưỡng đầy đủ.
Bệnh phổ biến
Tải ứng dụng để nhận thông báo Tin tức sức khỏe mới nhất
eDoctor - App StoreeDoctor -  Google Play

Bạn vẫn chưa tìm thấy thông tin mình cần?

Hãy để lại số điện thoại, chúng tôi sẽ tư vấn nhanh nhất cho bạn.