Basedow hay Graves là bệnh tự miễn, là một trong những bệnh lí cường giáp thường gặp trên lâm sàng với các biểu hiện chính: Nhiễm độc giáp kèm bướu giáp lớn lan tỏa, lồi mắt và tổn thương ở ngoại biên. Bệnh thường gặp ở phụ nữ hơn là nam giới.
Lo lắng, vú to ở nam giới, khó tập trung, nhìn đôi, lồi mắt, kích ứng mắt và chảy nước mắt, mệt mỏi, đi tiêu thường xuyên, bướu cổ, thèm ăn, tăng tiết mồ hôi, mất ngủ, kinh nguyệt không đều ở phụ nữ, yếu cơ, căng thẳng, tim đập nhanh.
Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Khám lâm sàng: Kiểm tra mắt xem có bị kích thích hoặc lồi không. Kiểm tra mạch, huyết áp và tìm những dấu hiệu bất thường. Bác sĩ cũng sẽ hỏi về các triệu chứng và lịch sử y tế cá nhân và gia đình. Xét nghiệm máu để xác định mức độ của tuyến giáp, hormone kích thích (TSH) và thyroxine. Hấp thu I - ốt phóng xạ. Cơ thể cần iodine để làm thyroxine. Sự hấp thu iốt phóng xạ cao cho thấy tuyến giáp sản xuất quá nhiều thyroxine, như trường hợp bệnh Graves - Basedow.
Không có cách chữa cho bệnh Graves nhưng có những phương pháp trị liệu làm giảm lượng hormone tuyến giáp (thyroxine) và giảm nhẹ triệu chứng. Thuốc bao gồm: beta-blockers làm giảm triệu chứng của nhịp tim, đổ mồ hôi và lo lắng, thuốc antithyroid (propylthiouracil / PTU, methimazole / Tapazole) để giảm số lượng hormone thyroxine. Điều trị các tuyến giáp hoạt động quá mức với iod phóng xạ hoặc phẫu thuật cắt bỏ tuyến.
Basedow là một trong những bệnh lí cường giáp thường gặp trên lâm sàng với các biểu hiện chính: Nhiễm độc giáp kèm bướu giáp lớn lan tỏa, lồi mắt và tổn thương ở ngoại biên.
Bệnh Basedow mang nhiều tên gọi khác nhau Bệnh Graves, bệnh Parry, bướu giáp độc lan tỏa, bệnh cường giáp tự miễn. Nhờ sự tiến bộ của miễn dịch học, ngày càng nhiều kháng thể hiện diện trong huyết tương người bệnh được phát hiện, vì thế hiện nay bệnh được xếp vào nhóm bệnh liên quan tự miễn.
Bệnh xảy ra ở mọi độ tuổi, nhất là độ tuổi 20 - 40 tuổi, phụ nữ gặp nhiều hơn nam giới, tỉ lệ nam / nữ = 1/5 - 1/7 ở vùng không bị bướu cổ địa phương. Tuy nhiên, ở vùng dịch tễ tỉ lệ này thấp hơn. Theo Volpé có lẽ liên quan đến sự khiếm khuyết của tế bào lympho T ức chế, là yếu tố cơ bản trong bệnh lí tự miễn ở tuyến giáp. Một vài yếu tố được ghi nhận có thể gây Basedow như:
Để đánh giá một cách tương đối trung thực về sự tẩm nhuận sau hốc mắt cũng như đánh giá điều trị cần siêu âm nhãn cầu.
Ngoài các biểu hiện trên còn tìm thấy một số dấu hiệu của các bệnh lí tự miễn phối hợp khác đi kèm như suy vỏ thượng thận, suy phó giáp, tiểu đường, nhược cơ nặng, trong bối cảnh bệnh đa nội tiết tự miễn.
Basedow là bệnh lý hiện chưa rõ nguyên nhân sinh bệnh nên chưa có biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa bệnh. Đối với những người đã bị Basedow, để tránh bệnh tái phát hay tiến triển nặng thêm cần thực hiện những biện pháp sau:
Hiện nay có nhiều phương pháp và phương tiện điều trị bệnh Bassedow. Việc chọn lựa phương pháp điều trị tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của thầy thuốc, điều kiện y tế cơ sở, sự dung nạp và tuân thủ của bệnh nhân trong quá trình điều trị. Dưới đây là một số phương pháp và phương tiện điều trị:
Nhóm thuốc ức chế tổng hợp hormone giáp: Thường được sử dụng lâm sàng chia làm 2 loại Carbimazole (neomercazole) 5mg, Methimazole 5mg Propylthiouracil (PTU) 50mg, Benzylthiouracil (BTU) 25mg.
Thuốc ức chế beta (propranolol, atenolol, esmolol):
Tốt nhất nên điều trị nội khoa đạt bình giáp trước khi phẫu thuật.
Theo dõi mỗi 4 - 6 tuần để phát hiện suy giáp hoặc cường giáp trở lại. Lưu ý có thể có suy giáp nhẹ tự hồi phục trong vòng 4 - 6 tuần. Suy phó giáp khoảng 3%, liệt dây thần kinh quặt ngược vì thế đòi hỏi phẫu thuật viên có kinh nghiệm.
Dùng I131 tập trung tại tuyến giáp để phá hủy nhu mô tuyến giáp tại chỗ, hiện là phương pháp điều trị được chọn lựa do hiệu quả cao, kinh tế và không có phản ứng phụ nghiêm trọng, chưa có bằng chứng cho rằng điều trị iod phóng xạ ảnh hưởng trên bệnh lí mắt trong Basedow hoặc gia tăng nguy cơ ác tính.
Tuyệt đối trường hợp thai nghén, tuy nhiên chưa có bằng chứng cho rằng điều trị iod phóng xạ có thể gây ra một số hậu quả xấu ở tử cung (nguy cơ bất thường bẩm sinh thai nhi ở phụ nữ sau khi điều trị phóng xạ) và buồng trứng (phóng xạ vào buồng trứng rất thấp tương đương với liều thăm dò X quang).
Chống chỉ định điều trị I131.
Không dùng iod trong quá trình điều trị, gây suy giáp trẻ sơ sinh.