RBC (Red Blood Cells) là chỉ số thể hiện số lượng hồng cầu có trong một đơn vị máu toàn phần.
Thông thường, giá trị chuẩn của RBC đối với từng đối tượng là:
Trong trường hợp bạn gặp phải tình trạng cô đặc máu, bệnh đa hồng cầu nguyên phát, thiếu oxy kéo dài, chỉ số này sẽ tăng cao, khiến lượng hồng cầu tăng. Ngược lại, nếu bị thiếu máu, suy tủy hoặc mất máu, … RBC sẽ hạ xuống thấp.
Hemoglobin (còn gọi là huyết sắc tố, viết tắt Hb hay Hgb) là một protein màu (chromoprotein) gồm hai thành phần là nhân hem và globin.
Đối với tổ chức của cơ thể người, hemoglobin cần phải được chứa trong hồng cầu. Tuy nhiên, một số bệnh lý có thể khiến hemoglobin xuất hiện trong huyết thanh, gọi là huyết sắc tố tự do.
Nếu ở dạng tự do, nó sẽ thấm dần qua các mao mạch và bị thất thoát qua nước tiểu. Xét nghiệm chỉ số hemoglobin huyết thanh đo số lượng các huyết sắc tố tự do này.
Các bác sĩ thường sử dụng xét nghiệm này để chẩn đoán hoặc theo dõi các tế bào hồng cầu bị phá vỡ bất thường như trong bệnh thiếu máu tán huyết.
Trong trường hợp người bệnh đã được truyền máu gần đây, xét nghiệm này có thể theo dõi phản ứng truyền máu.
Giá trị bình thường theo từng đối tượng:
Giá trị chẩn đoán:
Chỉ số này rất quan trọng trong việc đánh giá và theo dõi tình trạng mất máu, thiếu máu biểu hiện bởi HCT thấp và nghi ngờ một số bệnh lý về phổi, tim mạch hay chứng tăng hồng cầu khi HCT cao.
Giá trị bình thường:
NEU (Neutrophil) là tỉ lệ % hoặc số lượng tuyệt đối của bạch cầu hạt trung tính.
Giá trị bình thường: 43 – 76 % hoặc 2 – 8 G/L.
Chỉ số LYM là tỉ lệ % hoặc số lượng tuyệt đối của bạch cầu lympho.
Bạch cầu lympho là một dạng tế bào trắng ở trong máu. Nhiệm vụ chính của bạch cầu lympho là tăng cường sức để kháng của cơ thể để chống lại vi khuẩn, ký sinh trùng và những tác nhân gây bệnh.
Vì vậy bạch cầu lympho đóng vai trò rất quan trọng đối với hệ miễn dịch, chúng có khả năng chống lại các bệnh tật.
Giá trị bình thường: 17 – 48% hoặc 1 – 5 G/L.
Bạch cầu mono là một loại tế bào bạch cầu. Căn cứ vào kết quả xét nghiệm % bạch cầu mono bài tiết tăng hay giảm sẽ có những biểu hiện bệnh lý khác nhau.
Chỉ số xét nghiệm bạch cầu mono trong máu có thể phản ánh tình trạng viêm nhiễm, nhiễm trùng, hay một số bệnh lý khác.
Giá trị bình thường: 4 – 8% hoặc 0,2 – 1,5 G/L.
Là số lượng tiểu cầu có trong một đơn vị máu toàn phần.
Số lượng tiểu cầu quá thấp có thể gây ra chảy máu. Còn số lượng tiểu cầu quá cao sẽ hình thành cục máu đông, làm cản trở mạch máu có thể gây nên đột quỵ, nhồi máu cơ tim, nghẽn mạch phổi, tắc nghẽn mạch máu,...
Giá trị bình thường: 150 – 400 G/L.
Thông thường, khi nghi ngờ có bất thường liên quan đến chức năng của thận, người bệnh sẽ được chỉ định làm xét nghiệm ure. Ngoài ra, bệnh nhân lọc máu hoặc suy thận cũng cần làm xét nghiệm này định kỳ, theo hướng dẫn của bác sĩ.
Người bị suy giảm chức năng thận, tổn thương cầu thận cấp, nồng độ ure trong máu sẽ tăng. Ngược lại, nồng độ ure sẽ giảm khi người bệnh phải truyền dịch nhiều, chế độ ăn nghèo ure, suy gan,…
Bằng việc phân tích sự tăng giảm bất thường của chỉ số này, bác sĩ có thể đánh giá được chức năng của thận và chẩn đoán bệnh lý.
Cụ thể, nồng độ Creatinin sẽ tăng cao trong các trường hợp người bệnh bị suy giảm khối lượng tuần hoàn, suy tim, suy chức năng thận, tổn thương hệ tiết niệu,…; giảm khi mắc bệnh teo cơ cấp và mạn tính, suy dinh dưỡng hoặc ở phụ nữ mang thai.
Đây là kỹ thuật rất quan trọng trong việc chẩn đoán và phát hiện bệnh tiểu đường. Hàm lượng Glucose trong máu ở mức bình thường là từ 3,9 - 6,4 mmol/l.
Nếu lượng Glucose đo được cao hơn, bạn có thể đã mắc bệnh tiểu đường, gan hoặc giảm kali máu,...
Triglycerid thường được định lượng để giúp đánh giá tình trạng cân bằng giữa lipid đưa vào và chuyển hóa lipid trong cơ thể.
Chỉ số xét nghiệm cholesterol toàn phần phản ánh nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Do đó, nếu kết quả xét nghiệm định lượng cholesterol toàn phần càng cao thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch càng lớn.
Trị số bình thường của cholesterol toàn phần là dưới 200mg/dL (<5.2 mmol/L).
Trị số cholesterol toàn phần không tốt, có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe khi trên 240 mg/dL (>6.2 mmol/L).
SGOT (Glutamic-oxaloacetic transamine) hay còn gọi là AST (Aspartate aminotransferase) là một men Transamine, có nhiều trong bào tương và ti thể của nhiều loại tế bào, nhiều nhất là tế bào gan, sau đó là tế bào cơ tim, cơ xương, thận, não, tủy, phổi, bạch cầu và hồng cầu.
Giá trị bình thường của SGOT (AST) là từ 20-40 UI/L, giá trị của SGPT (AST) cũng từ 20-40 UI/L.
ALT (SGPT) được biết đến là 1 loại enzyme đặc trưng được tìm thấy đa số trong các tế bào gan, một số lượng ít tại thận, tim, cơ xương.
Với người khỏe mạnh bình thường thì nồng độ ALT trong máu thấp. Tuy nhiên, do tác động nào đó gây tổn thương cho gan thì ALT được giải phóng vào máu và nồng độ ALT trong máu sẽ tăng cao.
Bình thường, chỉ số xét nghiệm ALT cũng trong khoảng: 20 - 40 UI/L tương đương với mức bình quân của men AST.
Xét nghiệm Acid Uric thường được chỉ định thực hiện nhằm mục đích phát hiện và chẩn đoán các bệnh thận, khớp hay bệnh gout,...
Chí số này có thể tăng giảm tùy từng trường hợp, cụ thể:
Tham khảo thông tin về dịch vụ xét nghiệm tổng quát, lấy mẫu tận nhà của eDoctor tại đây.
Liên hệ đến hotline 1900 6115 hoặc truy cập fanpage eDoctor để nhận tư vấn chi tiết hơn về các gói khám và chương trình ưu đãi hiện tại.
Tải ngay ứng dụng eDoctor: dl.edoctor.io/taiapp để nhận thông tin sức khỏe mỗi ngày.
Nguồn: healthline.com