eDoctor
eDoctor
eDoctorChia sẻ

Viêm ruột do vi khuẩn Giardia

Là bệnh nhiễm trùng đường ruột do trùng roi Giardia lamblia gây ra. Ký sinh trùng Giardialây qua thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm, hoặc do tiếp xúc với phân bị nhiễm Giardia.

TRIỆU CHỨNG

Tiêu chảy, buồn nôn, nôn, đau bụng, đầy hơi.

CHẨN ĐOÁN

Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm phân để xác định ký sinh trùng. Xét nghiệm công thức máu toàn bộ (CBC), bảng chuyển hóa toàn diện (CMP). Các xét nghiệm bổ sung có thể được yêu cầu.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị bao gồm thuốc chống ký sinh trùng, bổ sung nước và chất điện giải, nghỉ ngơi. Truyền dịch tĩnh mạch cho các trường hợp mất nước nghiêm trọng.

Tổng quan

Giardia lamblia (G.Intestinalis và G.Duodenalis) là một loại sinh vật đơn bào, thuộc lớp trùng roi (Trichomonas) là 1 trong số 6 lớp của ngành Động vật nguyên sinh (Protozoa), chúng kí sinh ở phần đầu ruột non.  

Đa số người nhiễm Giardia không biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Những ca có biểu hiện lâm sàng thường có triệu chứng giống hội chứng lỵ nhưng phân không có máu, ở những ca bệnh giardia nặng (hiếm gặp) có thể có tổn thương ở niêm mạc của tá tràng và hỗng tràng. 

  • Bệnh lưu hành trên toàn cầu.
  • Trẻ em thường bị nhiễm bệnh nhiều hơn.
  • Những vùng điều kiện vệ sinh kém tỷ lệ mắc bệnh cao.
  • Những người bị suy giảm miễn dịch (AIDS) có thể bị bệnh nặng và kéo dài.
  • Tỷ lệ xét nghiệm thấy có ký sinh trùng trong phân dao động từ 1- 30% tuỳ cộng đồng và nhóm tuổi nghiên cứu.
><figcaption></figcaption></figure></div><ul><li>Ở một số nước Âu, Mỹ (Anh, Mehico, Mỹ), bệnh gặp nhiều ở trẻ dưới 5 tuổi hoặc lứa tuổi 25 - 39 và thường tăng cao từ tháng 7 đến tháng 10 hàng năm.</li><li>Những vụ dịch lớn thường liên quan đến nguồn nước bị nhiễm bẩn, những vụ dịch nhỏ thường liên quan đến thức ăn, thực phẩm hoặc ở cùng nhà trẻ.</li><li>Thể tự dưỡng (trophozoite) của Giardia được Leeuwenhoek quan sát mô tả lần đầu tiên vào năm 1681 trong khi quan sát phân tiêu chảy của chính mình.</li><li>Vào 1915, ký sinh trùng được đặt tên là Giardia do giáo sư A.Giard ở Parris. Brian J.Ford, nhà vi trùng học Anh đã cải tiến, chế ra một kính hiển vi gần giống loại Leeuwenhoek đã sử dụng cho phép thấy rõ Giardia.</li><li>Năm 1998, có một báo cáo về sự bùng phát dịch do Giardia và Cryptosporidion ở Sydney, Australia, nhưng nguyên nhân được tìm ra có sự tập trung của vi trùng trong hệ thống cung cấp nước.</li><li>Năm 2004, một vụ dịch bùng phát ở Bergen (Na-uy) do việc nghiên cứu đưa tia cực tím vào xử lí nước một cách vội vàng.</li><li>Tháng 10/2007, Giardia được tìm thấy trong hệ thống cung cấp nước cho nhiều khu vực ở Oslo, chính quyền khuyến cáo người dân nên uống nước đun sôi.</li><li>Năm 2008, Giardia được xác định là một trong những nguyên nhân gây bệnh kiết lỵ cho những đội thập tự quân ở Palestine vào thế kỷ 12 và 13.</li></ul></div></div><div class=
Nguyên nhân
  • Tác nhân gây bệnh là ký sinh trùng Giardia lamblia (G.Intestinalis và G.Duodenalis)
  • Hình thái: đó là các động vật đơn bào có dạng hình thoi, hình trứng, hình cầu, hình trụ... Kích thước từ 2-5 μm đến 1 mm.  Có cơ quan vận động là roi (một hoặc nhiều roi). Có thể quan sát dễ dàng bằng kính hiển vi thường.
  • Khả năng tồn tại ở môi trường: chúng có khả năng sinh nha bào (nang trùng) nên chịu đựng khá tốt ở môi trường ngoại cảnh, xử lý nước bằng Clo hoặc ozon ở nồng độ thông thường không diệt được nha bào nhưng chúng dễ dàng bị diệt khi đun sôi.
Nguyên nhân khác

Lâm sàng:

Hầu hết người nhiễm bệnh mang kén nhưng không có triệu chứng. Thời gian ủ bệnh từ 1-3 tuần, bệnh khởi phát từ từ hoặc cấp tính. Giai đoạn bệnh cấp tính thường diễn ra từ vài ngày đến vài tuần, tuy bệnh tự khỏi, nhưng bệnh nhân vẫn thải kén kéo dài. Ở một số bệnh nhân, bệnh có thể trở nên mạn tính và tiến triển trong nhiều năm.

Các thể lâm sàng của bệnh do Giardia là tiêu chảy cấp tính, tiêu chảy mạn tính, và hội chứng giảm hấp thu. Cả hai thể bệnh cấp và mạn tính, tiêu chảy thường diễn ra từ nhẹ tới nặng. Bệnh nhân có thể có các triệu chứng: phân nát và nhiều, đi tiêu 1 lần/ngày; hoặc số lần đi ngoài nhiều hơn, phân lỏng hơn, có thể chứa nhầy nhưng thường không có máu và mủ; phân thường có bọt, nặng mùi, và nhờn; sụt cân và mệt mỏi; trẻ em thì chậm lớn và chậm phát triển; có khi thấy chán ăn, buồn nôn và nôn, cảm giác khó chịu và đau vùng thượng vị, ợ, đầy hơi và chướng bụng; ít gặp sốt nhẹ, và đau đầu, nổi mụn sẩn, đau khớp, và đau cơ... Hội chứng giảm hấp thu có thể phát triển trong giai đoạn cấp hoặc mạn, có thể dẫn đến sụt cân nặng và suy kiệt.

 src=

Cận lâm sàng:

  • Soi phân, dịch hút tá tràng hoặc niêm mạc ruột non khi sinh thiết thấy nang trùng hoặc thể tư dưỡng của ký sinh trùng trong bệnh phẩm, cần tiến hành ít nhất 3 lần xét nghiệm trước khi kết luận âm tính.
  • Xét nghiệm kháng nguyên trong phân bằng phương pháp ELISA tìm kháng thể IgG, IgM giúp chẩn đoán bệnh.
  • Chụp Xquang ruột non thấy bình thường ở những bệnh nhân bị bệnh nhẹ, nhưng ở những bệnh nhân có các triệu chứng nặng có thể cho thấy các dấu không đặc hiệu như kéo dài thời gian vận chuyển, biến đổi nhu động ruột, dày nếp niêm mạc, đứt đoạn baryte.
Phòng ngừa
  • Tuyên truyền, giáo dục sức khoẻ: Thực hiện các biện pháp phòng chống chung như phòng chống các bệnh lây truyền theo đường tiêu hóa.  
  • Vệ sinh phòng bệnh: Thực hiện rửa tay trước khi ăn, trước khi cho trẻ ăn, trước khi chế biến thức ăn, sau khi đại tiện hoặc sau khi dọn vệ sinh cho trẻ.      ><figcaption></figcaption></figure></div><li>Thực hiện ăn chín, uống sôi: Cung cấp nước sạch, tránh làm nhiễm bẩn nguồn nước, tiến hành lọc các nguồn nước nhiễm phân người hoặc súc vật.    </li><li>Quản lí người lành mang trùng: Định kỳ kiểm tra, xét nghiệm phân của người nhà, người tiếp xúc, thức ăn ở các nhà trẻ, nhà hàng nếu phát hiện có nang trùng hoặc ký sinh trùng thì tổ chức cách ly, điều người chế biến thực phẩm.</li><li>Lối sống tình dục an toàn: sử dụng bao cao su khi quan hệ để phòng tránh khi quan hệ qua đường hậu môn, tránh dùng miệng kích thích vùng này, quan hệ chung thủy.</li><li>Bệnh nhiễm Giardia nếu được điều trị, bệnh nhân khỏi bệnh hoàn toàn mà không bị di chứng gì. Trái lại không được điều trị, bệnh nhân có thể bị rối loạn hấp thu nặng và có thể dẫn đến tử vong vì các nguyên nhân do suy kiệt. Bệnh thường dễ nhầm lẫn với lỵ amip, viêm đại tràng mãn nên việc chẩn đoán và điều trị cũng mất nhiều thời gian, vì vậy việc phòng bệnh là chính và rất cần thiết. Bệnh có thể lây qua đường tình dục nên việc dùng bao cao su là biện pháp phòng tránh hữu hiệu khi quan hệ qua đường hậu môn.</li></ul></div></div><div class=
    Điều trị

    Bệnh nhẹ:

    • Diloxanide (500 mg/viên):  uống 1 viên/lần x 3 lần/ngày, trong 10 ngày.
    • Paromomy (500 mg/viên): uống 1 viên/lần x 3 lần/ngày, trong 10 ngày.

    Bệnh nặng:

    • Metronidazole (Flagyl, Klion):   750 mg/lần x 3 lần/ngày. Uống 5-10 ngày. Trẻ em dùng 40-50mg/kg chia 4 lần/ngày.
    • Sau đó cần uống một đợt 20 ngày Diiodohydroxyquin để loại trừ tình trạng mang mầm bệnh trong ruột.
    • Tinidazole (Tindamax):  500mg/lần  x  4 lần/ngày (uống sau bữa ăn) x 3 ngày. 
    • Dehydroemetine (hiệu quả như metronidazole, nhưng độc cho tim): 1 - 1,5 mg/kg /ngày, Tiêm bắp trong 5 - 10 ngày.
    • Chloroquine: (ít hiệu quả hơn): uống 200 mg/lần x 3 lần/ngày x 2 ngày, sau đó 200 mg/ngày uống trong 2-3 tuần. (liều trẻ em: 10 mg/kg/ngày tối đa 300 mg/ngày).
    • Thận trọng: Không có thuốc nào được xem là an toàn cho thai phụ, tuy nhiên vẫn phải điều trị nếu bệnh nặng.
Bệnh phổ biến
Tải ứng dụng để nhận thông báo Tin tức sức khỏe mới nhất
eDoctor - App StoreeDoctor -  Google Play

Bạn vẫn chưa tìm thấy thông tin mình cần?

Hãy để lại số điện thoại, chúng tôi sẽ tư vấn nhanh nhất cho bạn.