eDoctor
eDoctor
eDoctorChia sẻ

Giãn phế quản

Là bệnh lý mở rộng các ống phế quản, thường do viêm tái phát hoặc nhiễm trùng đường hô hấp gây ra. Bệnh thường xuất hiện trong thời thơ ấu do biến chứng từ nhiễm trùng hoặc hít phải vật lạ, nhưng có thể phát triển ở mọi lứa tuổi.

TRIỆU CHỨNG

Ho, đờm nhuốm máu, khó thở, thở khò khè, mệt mỏi.

CHẨN ĐOÁN

Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Chụp X-quang và CT scan. Phân tích đờm có thể được thực hiện để loại trừ vi khuẩn, nấm hay bệnh lao (TB) lây nhiễm.

ĐIỀU TRỊ

Thuốc giãn phế quản (albuterol, ipratropium), expectorants và kháng sinh. Phẫu thuật cắt bỏ phần phổi bị ảnh hưởng có thể được thực hiện trong một số trường hợp.

Tổng quan

Giãn phế quản là bệnh lý khá thường gặp. Hầu hết các bệnh nhân giãn phế quản có triệu chứng lâm sàng điển hình như ho, khạc đờm mủ kéo dài; tuy nhiên, cũng có nhiều bệnh nhân xuất hiện giãn phế quản không hề có triệu chứng, hoặc có triệu chứng giống hen phế quản... Vậy giãn phế quản là gì?

Giãn phế quản là tình trạng giãn không hồi phục của cây khí phế quản, có thể giãn phế quản chỉ khu trú ở một vùng của phổi, tuy nhiên, phần lớn các trường hợp giãn phế quản là giãn lan tỏa, bị cùng lúc khắp các vị trí lòng phế quản ở cả hai bên.

Do lòng phế quản bị giãn rộng, các lông chuyển ở đường hô hấp bị tổn thương, ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc vận chuyển đờm và các chất tiết đường hô hấp ra ngoài.

Khi chất tiết, dịch đường hô hấp bị ứ đọng lại sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng đường hô hấp, quá trình nhiễm trùng này lại gây tổn thương niêm mạc đường thở, làm cho tình trạng giãn phế quản ngày một nặng thêm.

Nguyên nhân

Giãn phế quản mắc phải

Loại này chiếm tới 90% số bệnh nhân giãn phế quản. Có thể gặp khi:

  • Viêm đường hô hấp kéo dài: thường là hậu quả của các bệnh như viêm xoang, viêm tai, viêm mũi, viêm vùng răng miệng, nhiễm khuẩn đường hô hấp, nhiễm vi-rút đường hô hấp, một số bệnh nghề nghiệp... Các bệnh này gây nhiễm khuẩn phế quản kéo dài và tái diễn, dẫn đến tổn thương các sợi cơ, sợi chun và sụn phế quản. Đồng thời, các chất xuất tiết ùn tắc lại trong phế quản và phản xạ ho gây tăng áp lực trong lòng phế quản kéo dài sẽ dẫn tới giãn phế quản.
  • Lao phổi: trong lao phổi, hiện tượng xơ sẹo phát triển sẽ gây biến dạng và chít hẹp phế quản, tại đó tình trạng viêm nhiễm và ứ đọng các chất xuất tiết sẽ dẫn tới tổn thương các cấu trúc thành phế quản, kết hợp với phản xạ ho gây tăng áp kéo dài sẽ làm phế quản bị giãn ra. Tuỳ từng thể lao mà khả năng gây giãn phế quản khác nhau: lao xơ hang gây giãn phế quản nhiều hơn 4 lần lao hạt và nhiều hơn 11 lần lao thâm nhiễm.
  • Các bệnh viêm nhiễm vi-rút ở phổi và phế quản: các bệnh này gây bội nhiễm, ho và tăng áp trong lòng phế quản kéo dài. Lúc đầu, giãn phế quản chỉ là tạm thời, nhưng do điều trị không tốt nên tổn thương không hồi phục và dẫn tới bệnh giãn phế quản.
  • Các tổn thương gây hẹp phế quản: khi các phế quản bị hẹp sẽ gây ùn tắc trong phế quản, gây viêm nhiễm, xuất tiết kéo dài và tổn thương các cấu trúc thành phế quản, đồng thời sự chít hẹp này cũng gây tăng áp trong lòng phế quản và dẫn tới giãn phế quản tăng dần. Các bệnh lý hay gây nên tình trạng này là các polyp phế quản, dị vật phế quản, các bệnh lý hạch ở rốn phổi như lao hạch, Hodgkin, Lymphosarcom...
  • Giãn phế quản do hoá chất: thường gặp ở những người làm việc lâu ngày với các hoá chất bay hơi. Các hoá chất này bị hít vào đường hô hấp gây kích thích, tăng tiết và tổn thương cấu trúc thành phế quản, đồng thời gây phản xạ ho và tăng áp trong lòng phế quản kéo dài dẫn tới giãn phế quản.

Giãn phế quản bẩm sinh

Giãn phế quản bẩm sinh chỉ chiếm khoảng 10% số bệnh nhân giãn phế quản. Đa số đều thấy ở bệnh nhân trẻ và có kết hợp với bệnh phổi đa nang. Giãn phế quản bẩm sinh thường là loại giãn phế quản hình túi và thường có những tổn thương bẩm sinh khác kèm theo.

Nguyên nhân khác

Ở vùng phổi bị giãnphế quản viêm phổi tái diễn nhiều lần về mùa lạnh. Người bệnh sút cân,thiếu máu, yếu sức, hầu hết có biểu hiện viêm đường hô hấp trên kèm theo như viêmmũi, xoang chảy mủ. Triệu chứng đau ngực có thể là dấu hiệu sớm của nhiễmkhuẩn phế quản ở vùng giãn phế quản. Nếu giãn phế quản lan rộng cả hai bên cóthể làm người bị tím tái, khó thở... Nhiều trường hợp mắc phải căn bệnh này còncó ngón tay hình dùi trống. Giãn phế quản có thể kèm theo một vài bệnh sau:viêm xoang, viêm khớp dạng thấp, viêm đại tràng mạn tính, vô sinh, hội chứngmóng tay vàng, luput ban đỏ hệ thống, viêm mạch với các xuất huyết ở da và tăngcác phức hợp miễn dịch lưu hành...

Phòng ngừa

Muốn điều trị hiệu quả bệnh phải loại trừ mọi kích thích phế quản: thuốc lá, thuốc lào, khói bếp, khói bụi công nghiệp… Phát hiện và điều trị các bệnh nhiễm khuẩn ở răng, tai mũi họng. Phải phục hồi chức năng hô hấp: cần làm thường xuyên với tập thở, ho có điều khiển, gõ ngực cho đờm dễ dàng dẫn lưu ra ngoài, nằm đầu thấp với các tư thế khác nhau tùy theo vùng phế quản giãn nhiều lần trong ngày để dẫn lưu theo tư thế; phun hít thuốc giãn nở phế quản kích thích β2 (salbutamol, terbutaline...). Khi bệnh nhân sốt, khạc nhiều đờm, đờm mủ, biến chứng nhiễm khuẩn nhu mô, màng phổi: dùng các kháng sinh theo chỉ định của thầy thuốc. Nếu bệnh nhân có quá nhiều đờm dịch ùn tắc phế quản hay các tổn thương gây tắc phế quản không đáp ứng tốt với thuốc phải tiến hành nội soi phế quản để hút dịch.

Trường hợp giãn phế quản cục bộ một bên phổi, khi nung mủ nhiều hoặc ho máu nặng, điều trị nội khoa thất bại thì cần phải phẫu thuật. Để phòng bệnh hiệu quả, cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ hệ hô hấp. Nếu bị viêm phế quản, viêm mũi, xoang cần điều trị sớm và triệt để. Các vaccin phòng cúm, phế cầu cũng được khuyến cáo sử dụng, cần tiêm nhắc lại hàng năm trước mùa dịch dễ bùng phát khoảng 1 tháng. Trẻ em và người già, người hay mắc bệnh đường hô hấp rất cần được bảo vệ bằng vaccin./.

Điều trị

Bệnh giãn phế quản không thể điều trị khỏi hoàn toàn, các bệnh nhân thường chỉ đến viện mỗi khi có đợt cấp, việc điều trị tại bệnh viện do vậy chính là điều trị đợt bội nhiễm của giãn phế quản. Khi ở nhà, các bệnh nhân cần thường xuyên vỗ rung ngực và thực hiện các biện pháp ngăn ngừa đợt cấp.

Các điều trị giãn phế quản bao gồm:

Điều trị nội khoa

  • Dùng kháng sinh mỗi khi có đợt bội nhiễm của giãn phế quản. Các tiêu chí đánh giá đợt bội nhiễm của giãn phế quản bao gồm:
    • Ho khạc đờm tăng.
    • Khạc đờm mủ, màu xanh hoặc vàng.
    • Bệnh nhân giãn phế quản có hội chứng nhiễm trùng rõ sau khi đã loại trừ nhiễm trùng do căn nguyên khác.
    • Những trường hợp không có các dấu hiệu nêu trên nhưng có ho ra máu cũng chỉ định dùng kháng sinh.
    • Thời gian dùng kháng sinh thường từ 10-15 ngày. Những trường hợp giãn phế quản rất nặng, thời gian dùng kháng sinh có thể kéo dài hơn, thậm chí tới 1 tháng.
  • Dẫn lưu đờm. Là liệu pháp điều trị rất quan trọng, có tầm quan trọng như dùng kháng sinh. Biện pháp dẫn lưu đờm được thực hiện như sau:
    Hướng dẫn cho bệnh nhân cách ho, khạc đờm sâu và vỗ rung lồng ngực, kết hợp dẫn lưu tư thế hàng ngày. Tùy theo vị trí giãn phế quản mà lựa chọn tư thế cho phù hợp với nguyên tắc vùng giãn phế quản được đặt ở vị trí cao nhất. Vùng giãn phế quản ở phía sau: bệnh nhân được đặt nằm xấp, vùng giãn phế quản ở phía trước: bệnh nhân được đặt nằm ngửa... Sau đó dùng hai bàn tay khum lại, vỗ đều vào ngực bệnh nhân. Kết hợp rung và lắc ngực. Mỗi lần làm kéo dài 15-20 phút, ngày làm từ 2-3 lần. Việc vỗ rung và dẫn lưu tư thế tiếp tục được duy trì tại nhà cho bệnh nhân. Nên đóng ghế vỗ rung để việc vỗ rung được thuận tiện hơn.
  • Điều trị hội chứng xoang phế quản nếu có (bệnh nhân giãn phế quản có kèm và viêm đa xoang mạn tính). Có thể cho bệnh nhân uống erythromycine 10 mg/kg/ngày, chia 2 lần, kéo dài từ 6-24 tháng nếu bệnh nhân không bị các tác dụng phụ của thuốc. Không dùng đồng thời với Theophyllin hoặc các thuốc cùng nhóm xanthin do gây xoắn đỉnh.
  • Điều trị triệu chứng
    • Khi bệnh nhân có khó thở, nghe phổi có ran rít, ngáy, bệnh nhân thường được dùng thêm các thuốc giãn phế quản dùng đường uống hoặc khí dung hoặc kết hợp cả hai. Các thuốc có thể được dùng bao gồm: salbutamol, terbutaline, thuốc kháng cholinergic, theophylline, bambuterol...
    • Khi bệnh nhân có ho ra máu:
      • Bệnh nhân thường được dùng kháng sinh, dùng thuốc cầm máu, an thần. Trường hợp ho máu nặng, bệnh nhân có thể cần được thở oxy, đặt nội khí quản hoặc nội soi phế quản để hút máu đọng. Truyền máu khi có thiếu máu.
      • Những trường hợp ho máu điều trị không hiệu quả với thuốc cần được chỉ định chụp động mạch phế quản và xét nút tắc động mạch phế quản gây chảy máu.
  • Điều trị nội soi: Soi phế quản ống mềm để chẩn đoán vị trí chảy máu, giải phóng đờm dịch, giải phóng dị vật gây tắc phế quản. Trong quá trình soi tiến hành hút dịch phế quản làm xét nghiệm vi sinh vật, bơm rửa lòng phế quản.

Phẫu thuật

Chỉ định cắt phân thuỳ hoặc cả bên phổi cho những trường hợp giãn phế quản khu trú; giãn phế quản có ho máu nặng hoặc ho máu tái phát.

Bệnh phổ biến
Tải ứng dụng để nhận thông báo Tin tức sức khỏe mới nhất
eDoctor - App StoreeDoctor -  Google Play

Bạn vẫn chưa tìm thấy thông tin mình cần?

Hãy để lại số điện thoại, chúng tôi sẽ tư vấn nhanh nhất cho bạn.