eDoctor
eDoctor
eDoctorChia sẻ

Đông máu nội mạch rải rác

Là bệnh xảy ra do suy giảm nghiêm trọng các cơ chế đông máu. Các yếu tố nguy cơ thường là nhiễm trùng hoặc ung thư. Cục máu đông nhỏ có thể làm tắc nghẽn động mạch đến các cơ quan quan trọng khiến quá trình dẫn máu đến các cơ quan này bị thất bại. Ngoài ra bệnh nhân có thể bị chảy máu quá mức do giảm yếu tố đông máu và tiểu cầu.

TRIỆU CHỨNG

Chảy máu, dễ bị bầm tím, đổi màu da, huyết áp thấp.

CHẨN ĐOÁN

Hỏi bệnh sử và khám thực thể. Xét nghiệm máu để chẩn đoán các rối loạn. Những xét nghiệm này sẽ cho thấy tiểu cầu thấp và khiếm khuyết của cơ chế đông máu. Các xét nghiệm tìm nguyên nhân cũng sẽ được thực hiện. Xét nghiệm công thức máu toàn bộ (CBC), bảng chuyển hóa toàn diện (CMP) và D-Dimer.

ĐIỀU TRỊ

Xác định và điều trị các nguyên nhân cơ bản (chẳng hạn như nhiễm trùng) là tối quan trọng. Truyền máu. Thuốc làm loãng máu (heparin) được sử dụng để ngăn ngừa tình trạng đông máu tiến triển.

Tổng quan

Đông máu nội mạc rải rác là một hội chứng liên quan tới hoạt tính đông máu tuần hoàn không bình thường, làm tăng mức tiêu hao tại chỗ tế bào tiểu cầu và các yếu tố đông máu, đưa tới hậu quả hình thành những huyết  khối vi thể (vi huyết khối) trong các mạch máu nhỏ, xuất huyết và thường kèm theo tình trạng sốc.

Căn nguyên rối loạn đông máu này thường do sự xâm nhập vào trong máu tuần hoàn bởi một số chất có hoạt tính làm đông máu, đặc biệt là nội độc tố của vi khuẩn, những chất lipid xuất phát từ tai biến tan huyết và từ sự hủy hoại mô tế bào. Khoảng 10% số bệnh nhân trong tình trạng phải hồi sức mắc hội chứng này.

Hoạt tính đông máu tuần hoàn dẫn tới hình thành nhiều khối rất nhỏ fibrin (sợi huyết) lắng đọng ngay trong lòng các tiểu động mạch (nên gọi là huyết khối vi thể, hoặc vi huyết khối), đồng thời fibrinogen (chất sinh sợi huyết), prothrombin, các yếu tố VI, VIII, tiểu cầu bị tiêu quá mức và những yếu tố VII, IX, X đều được hoạt hóa. Ngoài ra, người ta hay thấy hiện tượng tan fibrin thứ phát do hệ thống tan fibrin bị kích thích và sản xuất fibrinogen tăng lên đồng thời với tăng các sản phẩm thoái giáng của fibrin.

Nguyên nhân
  • Biến chứng sản khoa: sảy thai nhiễm khuẩn, thai chết lưu, tắc mạch ối, chảy máu khi sổ rau, nhiễm độc thai nghén, chửa chứng, ngập máu tử cung-rau thai.
  • Nhiễm khuẩn cấp tính: nhiễm khuẩn huyết do màng não cầu, các vi khuẩn, nhất là vi khuẩn Gram âm hoặc vi-rút, ký sinh trùng sốt rét P. falciparum.
  • Ung thư: bệnh bạch cầu cấp (nhất là bệnh bạch cầu cấp dòng tủy), một số bệnh ung thư (nhất là ung thư phổi, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư tụy) thường kèm theo di căn.
  • Can thiệp ngoại khoa: phẫu thuật ở tuyến tiền liệt, ở não, tim, phổi (chạy tuần hoàn ngoài cơ thể, hoặc chạy tim phổi nhân tạo),…
  • Tan máu cấp tính: nhất là trong những phản ứng sau truyền máu, ban xuất huyết tối cấp, và hội chứng urê huyết, tan huyết ở trẻ em.
  • Sốc phản vệ: xảy ra trong trường hợp chấn thương nặng, bỏng rộng, ghép tạng, rắn cắn, bệnh lupus ban đỏ rải rác.
  • Tác động gây độc của một số thuốc: (dextran có trọng lượng phân tử cao, các thuốc cản quang có iốt…).
  • Các bệnh của mạch máu: u mạch máu khổng lồ (hội chứng Kasabach-Merritt), nghẽn mạch phổi, phồng động mạch chủ.
Nguyên nhân khác

Hội chứng cấp tính

Chảy máu thường nặng do tan fibrin thứ phát và có thể nguy kịch trong quá trình một can thiệp ngoại khoa hoặc sản khoa (ví dụ phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt), hoặc sau đẻ. Bệnh cảnh lâm sàng nổi trội bởi tình trạng sốc, dẫn tới suy thận cấp với những huyết khối vi thể trong các mao mạch của tiểu cầu thận và hoại tử vùng vỏ thận. Nếu có huyết khối vi thể ở trong các xoang của tuyến thượng thận thì sẽ thấy xuất hiện hội chứng Waterhouse-Friderichsen.

><figcaption></figcaption></figure></div><h4><strong>Hội chứng bán cấp tính</strong></h4><p>Tình trạng tăng đông máu làm cho bệnh nhân bị các biến chứng huyết khối-nghẽn mạch, đặc biệt là huyết khối tĩnh mạch, van động mạch chủ có những sùi huyết khối tĩnh mạch và những mảnh sùi này sẽ gây ngẽn mạch. Hội chứng xuất huyết ít nhiều rõ rệt. Có thể phát hiện thấy thiếu máu tan huyết vi mạch.</p><h4><strong>Xét ngiệm cận lâm sàng</strong></h4><ul><li>Test cầm máu: bị rối loạn ở các mức độ rất khác nhau. Mới đầu và trong các thể cấp tính, thời gian throbin và thời gian prothrombin đều ngắn lại do hoạt hóa các yếu tố V và VIII cùng với fibrinogen bị giảm dần.</li><li>Giảm tiểu cầu: số lượng tiểu cầu giảm dần tới khoảng 10.000/µl.</li><li>Hình thành cục máu đông: cục máu đông không hình thành được hoàn toàn (thường có kích thước rất nhỏ, đôi khi không nhìn thấy được). Đôi khi cục máu đông mới hình thành lại bị tan nhanh do tan fibrin thứ phát.</li><li>Những sản phẩm thoái giáng của fibrin và fibrinogen: tăng lên là do fibrinogen hoặc fibrin bị enzym plasmin và những enzym khác phân giải. Những phức hợp hòa tan tạo nên bởi những đơn phân của fibrin có thể được phát hiện bằng các test miễn dịch với latex, test lên bông với sulfat protamin, hoặc bằng phản ứng ngưng kết hồng cầu.</li><li>Thời gian tan euglobulin: giảm (dấu hiệu tan fibrin thứ phát).</li><li>Huyết đồ: thường hay thấy các mảnh vỡ hồng cầu trên phiến đồ.</li></ul></div></div><div class=
Điều trị
  • Bao giờ cũng cần phải điều trị nguyên nhân và đôi khi như vậy cũng đủ. Điều trị chính tình trạng đông máu nội mạch rải rác cần phải dựa trên những xét nghiệm chuyên khoa về cầm máu.
  • Truyền máu toàn phần hoặc huyết tương tươi: có ích để chống sốc, để bù lại máu bị mất do xuất huyết, và để cung cấp thêm những yếu tố đông máu bị thiếu.
  • Heparin tiêm tĩnh mạch, 100 đơn vị/kg 4-6 giờ/lần: có thể hạn chế được đông máu nội mạch và xuất huyết, nhưng đòi hỏi phải kiểm soát nghiêm ngặt về lâm sàng và sinh học để tránh làm cho xuất huyết nặng thêm. Nguy cơ xuất huyết nặng thêm này ít xảy ra ở các thể bán cấp và mạn tính hơn, so với các thể cấp tính, chỉ được chỉ định dùng heparin nếu không thể kiểm soát nhanh chóng được bệnh gây ra đông máu nội mạch, hoặc nếu muốn tránh xuất huyết não xảy ra.
  • Truyền tiểu cầu phù hợp với mô, nếu thấy giảm tiểu cầu nặng.
  • Trong một số hiếm trường hợp tan fibin nguyên phát đơn thuần, điều trị sẽ bao gồm máu tươi cho fibrinogen và thuốc chống tan fibrin có tác dụng kìm hoãn hoạt hóa enzym fibrinolysin và phục hồi khả năng cầm máu.
Bệnh phổ biến
Tải ứng dụng để nhận thông báo Tin tức sức khỏe mới nhất
eDoctor - App StoreeDoctor -  Google Play

Bạn vẫn chưa tìm thấy thông tin mình cần?

Hãy để lại số điện thoại, chúng tôi sẽ tư vấn nhanh nhất cho bạn.