Lo ngại tình trạng thiếu hụt nguồn cung oxy và việc thí điểm cách ly F0 ở nhà, nhiều người mua máy tạo oxy hoặc máy trợ thở để đề phòng Covid-19 dù chưa hiểu rõ nó có mang lại tác dụng gì trong việc điều trị hay không. Cùng hiểu thêm về việc dùng máy thở đối với bệnh nhân Covid-19 trong bài viết này nhé.
Theo bác sĩ Nguyễn Đăng Khiêm - Trưởng khoa Cấp cứu, Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô, máy trợ thở là máy hỗ trợ hô hấp đơn giản cho những bệnh nhân có vấn đề về đường thở. Máy này thường được sử dụng trong các trường hợp bệnh nhân bị béo phì, hội chứng ngưng thở khi ngủ.
Cấu tạo và cách vận hành của máy trợ thở cũng khá đơn giản, có thể tự sử dụng tại nhà mà không cần những thiết bị bổ trợ hoặc đào tạo chuyên sâu.
Còn máy thở là máy hỗ trợ hô hấp được dùng trong bệnh viện, có cấu tạo phức tạp, nhiều tính năng để có thể hỗ trợ cho các bệnh nhân mất khả năng hô hấp do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân tổn thương phổi nặng. Sử dụng máy thở chuyên dụng cần có các thiết bị bổ trợ như oxy, khí nén và người sử dụng phải được đào tạo chuyên sâu về sử dụng máy thở.
Bác sĩ Trần Văn Phúc – Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn cho biết, máy trợ thở cũng lọc không khí vào và ra, lọc hết tác nhân gây bệnh, trong đó có virus. Tuy nhiên, máy trợ thở kết nối với bệnh nhân bằng mặt nạ úp lên mũi, nó không đảm bảo đủ kín, virus có thể bơm vào môi trường xung quanh, làm cho bệnh nhân khác bị nhiễm virus, nhân viên y tế cũng có thể bị nhiễm.
“Máy trợ thở sẽ đưa đến mũi của bệnh nhân một luồng không khí đủ oxy với áp lực cao. Người bệnh cũng phải thở ra với một áp lực cao tương ứng theo máy, trong khi mặt nạ chùm lên mũi không chắc chắn đảm bảo kín (do sự gồ ghề của khuôn mặt, do bệnh nhân móm, do rách mặt nạ).
Điều này làm cho virus dễ phát tán ra môi trường bên ngoài, có thể gây tình trạng lây nhiễm chéo, đặc biệt là nguy cơ nhiễm bệnh cho nhân viên y tế. Trong trường hợp này, rõ ràng SARS-CoV-2 rất dễ lây lan”, bác sĩ Phúc nhấn mạnh.
Bác sĩ Phúc khuyến cáo, để hạn chế lây nhiễm chéo, bệnh nhân Covid-19 khi dùng máy trợ thở, cần thiết phải nằm trong buồng điều trị áp lực âm đồng thời tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc chống nhiễm khuẩn.
Máy thở đã trở thành một biểu tượng trong đại dịch COVID-19, là hy vọng cuối cùng để sống sót ở những bệnh nhân không thể tự thở duy trì sự sống. Tuy nhiên, khi cần đến máy thở cũng là lúc bệnh tình của họ đang bước giai đoạn nghiêm trọng nhất.
Trên thế giới, rất nhiều bệnh nhân COVID-19 dù đã được sử dụng máy thở nhưng vẫn không qua khỏi. Song song đó, những người hiện đang chiến đấu với COVID-19 có thể sẽ phải đối mặt với các vấn đề về hô hấp do cả máy móc và virus corona gây ra. Vấn đề nằm ở chỗ, những người thở máy càng lâu thì càng có nhiều nguy cơ gặp các biến chứng liên quan đến thiết bị hỗ trợ này.
Giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng COVID-19, đã có một xu hướng đưa bệnh nhân vào máy thở sớm khi tình trạng của họ đang xấu đi nhanh. Hiện tại, các bác sĩ để những bệnh nhân này chịu đựng thêm một chút. Họ cung cấp cho bệnh nhân một ít oxy nhưng không đặt nội khí quản cho đến khi người bệnh thực sự bị suy hô hấp. Máy thở cần được chỉ định vào thời điểm chính xác, không sớm hơn trước khi bệnh nhân cần và khi đó là sự lựa chọn duy nhất.
Trong đại dịch COVID-19, máy thở trở nên khan hiếm hơn, nhiều bệnh viện ở New York và các nước Châu Âu đang phải đối mặt với tình trạng thiếu máy thở và giường chăm sóc đặc biệt ICU. Vấn đề đã trở nên cấp bách khi các bác sĩ tại đây phải quyết định bệnh nhân nào sẽ được đặt máy thở trong điều kiện quá tải.
Các bệnh viện đều nhấn mạnh vào sự tôn trọng bệnh nhân và gia đình, sự công bằng và minh bạch. Nghĩa là bệnh nhân được cho biết chính xác trường hợp nào sẽ được ưu tiên dùng máy thở. Một số nguyên tắc chung bao gồm:
Các chuyên gia ước tính rằng khoảng 40 - 50% bệnh nhân vẫn tử vong sau khi thở máy, bất kể bệnh tiềm ẩn của họ là gì. Hiện nay, vẫn còn quá sớm để đưa ra kết luận với bệnh nhân COVID-19, nhưng một số khu vực ở New York đã báo cáo có đến 80% số người nhiễm virus chết sau khi được thở máy.
Mặt khác, có ý kiến cho rằng những bệnh nhân nguy kịch tử vong vì sự tàn phá cơ thể của virus COVID-19, chứ không phải vì máy thở gây hại nghiêm trọng cho họ. Phần lớn các trường hợp tử vong đều không liên quan đến máy thở. Bệnh nhân nguy kịch vẫn chết dù có được thở máy hay không.
Vào tháng trước, một bệnh nhân trong tình trạng nguy kịch tại thành phố New York phải thở máy 6 ngày sau khi được chẩn đoán mắc COVID-19. Khi nhập viện, đã có bác sĩ cảnh báo anh rằng tốt nhất không nên đặt máy thở, vì nhiều người đã không qua khỏi sau khi sử dụng thiết bị này.
Bệnh nhân này hiện tại đã sống sót và rất biết ơn chiếc máy thở, nhưng anh cũng đang cố gắng phục hồi khả năng tự thở của mình. Anh cho biết mình cảm thấy khó thở ngay cả khi gắng sức nhẹ. Mặc dù trước đây đã từng chạy marathon, nhưng bây giờ anh không thể đi bộ qua phòng bên hoặc lên cầu thang vì không thở được. Bệnh nhân cũng không thể đi vòng quanh để hít thở không khí trong lành trừ khi được người thân đẩy trên xe lăn
Nhìn chung thì máy thở vẫn có nguy cơ gây ra một loạt các tác dụng phụ. Những biến chứng này, kết hợp với tổn thương phổi từ COVID-19, có thể khiến quá trình phục hồi trở nên khó khăn và lâu dài.
Máy thở đẩy không khí vào phổi của bệnh nhân, họ phải được an thần và lắp một ống nội khí quản trong cổ họng. Vì được hô hấp nhờ máy móc, cơ hoành và tất cả các cơ khác liên quan đến việc hít thở của bệnh nhân sẽ bị suy yếu. Khi tất cả các cơ này trở nên yếu hơn, người bệnh sẽ bị khó thở dù đã đạt điều kiện rút và cai máy thở.
Bệnh nhân cũng có nguy cơ bị tổn thương phổi cấp tính liên quan đến máy thở. Tình trạng này xuất hiện do tràn phổi do chăm sóc thở máy không đúng cách. Các bác sĩ phải tính toán chính xác lượng không khí để đẩy vào phổi của mỗi người. Thực tế, phần lớn phổi có thể chứa đầy chất lỏng và không có khả năng nhận quá nhiều oxy, do đó lượng không khí cần cung cấp thường sẽ ít hơn nhu cầu. Nếu các chỉ số không được thiết lập chính xác, máy thở sẽ gây thêm chấn thương cho phổi.
Bệnh nhân thở máy cũng có nguy cơ nhiễm trùng cao. Thậm chí nhiều người cũng gặp biến chứng tâm lý. Theo các bác sĩ, 1/4 bệnh nhân phát triển rối loạn căng thẳng sau chấn thương, và có đến 50% số người bị trầm cảm sau đó. Nếu thời gian dùng máy thở càng lâu, những biến chứng này càng có khả năng xảy ra.
Nguồn: Vinmec.com, Congthuong.vn