Trong bối cảnh dịch bệnh COVD-19 phức tạp, đặc biệt là tại các vùng đang có dịch, việc xử lý các ca đột quỵ trên nền bệnh nhân COVID-19 cần được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn.
Theo nghiên cứu, tỷ lệ các ca đột quỵ cấp trên bệnh nhân COVID-19 không nhỏ. Việc xử trí ca bệnh nặng phải tuân thủ theo hướng dẫn y tế, vừa phải đảm bảo giảm thiểu thấp nhất nguy cơ lây nhiễm cho nhân viên y tế. Sau đây là những hướng dẫn trong các trường hợp khác nhau.
Trong diễn biến phức tạp của bệnh COVID-19, nhiều người cho rằng nếu nhiễm virus SARS-CoV-2 sẽ gây tổn thương phổi dẫn đến khó thở, suy hô hấp. Tuy nhiên theo ghi nhận của các nhà nghiên cứu thì đột quỵ cấp sau mắc COVID- 19 xảy ra với tỷ lệ cao.
Hầu hết bệnh nhân đột quỵ có chỉ định lấy bỏ huyết khối cơ học gần như không thể chứng minh âm tính với COVID-19. Tại các khu vực mà dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, bệnh nhân âm tính giả cũng đã được báo cáo. Trong những trường hợp như vậy, khuyến cáo sử dụng trang bị bảo hộ cá nhân tiêu chuẩn (PPE) cho êkip can thiệp (bao gồm mũ phẫu thuật, bảo vệ mắt, áo choàng / găng tay bảo hộ, bao giày, và v.v.).
Bệnh nhân đã được xác định dương tính với COVID (hoặc những người được cho là dương tính) nên được điều trị với những biện pháp an toàn tối đa. Các thủ thuật đặt / rút ống nội khí quản, hút đờm dãi và hồi sức tim phổi, ...có thể làm vung vãi dịch tiết đường hô hấp, tăng nguy cơ phơi nhiễm cho nhân viên y tế.
Trong khi đó, bệnh nhân đã được đặt nội khí quản ít gây nguy cơ lây truyền sang êkip can thiệp hơn vì sự thông khí của họ được quản lý trong một mạch kín. Tuy nhiên, một sự gián đoạn nào đó của mạch kín này (như do rò rỉ, thao tác hút đờm ống nội khí quản,...) có thể giải phóng thêm dịch tiết.
Do đó, khuyến cáo nên sử dụng các quy trình chuẩn với ngưỡng thấp để đặt sớm ống nội khí quản cho những bệnh nhân đột quỵ dương tính với COVID-19 trước khi vận chuyển đến phòng chụp mạch để lấy bỏ huyết khối, lý tưởng là trong môi trường áp lực âm.
Ví dụ, bệnh nhân bị tắc nghẽn bán cầu não ưu thế với chỉ số NIHSS rất cao hoặc điểm Glasgow thấp, hoặc tắc nghẽn tuần hoàn sau (cũng như bất kỳ bệnh nhân nào có triệu chứng khó thở đáng kể) nên được xem xét đặt nội khí quản bởi vì nguy cơ của đặt nội khí quản trong lúc làm thủ thuật là cao.
Một khi bệnh nhân đã đặt nội khí quản được chuyển vào phòng can thiệp, tất cả êkip can thiệp nên mặc PPE nâng cao tại mọi thời điểm, bao gồm mũ phẫu thuật, bảo vệ mắt (kính bảo hộ và tấm chắn mặt), bộ áo choàng, găng tay, bao giày, mặt nạ N95 hoặc mang máy cung cấp không khí sạch (PAPR). Khuyến cáo bác sĩ can thiệp và kỹ thuật viên X quang can thiệp nên mang giày bốt nếu có thể để giảm thiểu lây nhiễm.
Tốt nhất, êkip can thiệp nên sử dụng khẩu trang N95 hoặc PAPR còn mới cho mỗi lần xử trí bệnh nhân COVID dương tính. Trong điều kiện thiếu hụt trang bị bảo hộ, có thể là hợp lý khi đeo khẩu trang phẫu thuật chuẩn bên ngoài khẩu trang N95, giảm thiểu số lượng nhân viên tham gia thủ thuật, và nên thực hiện theo các hướng dẫn chuẩn về sử dụng / tái sử dụng mặt nạ N95.
Không nên rút nội khí quản cho bệnh nhân trong phòng can thiệp mạch (trừ khi trong môi trường có luồng khí áp lực âm), bệnh nhân nên được đưa đến phòng ICU cách ly để rút nội khí quản theo kế hoạch với các biện pháp phòng ngừa tiếp xúc.
Tầm soát sốt và các triệu chứng hô hấp nên là một phần của nội dung sàng lọc cho tất cả bệnh nhân có thể được can thiệp thần kinh. Cần xem xét đặt nội khí quản cho những bệnh nhân này trước khi chuyển đến phòng can thiệp mạch, đặc biệt những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ của đặt nội khí quản trong can thiệp.
Do thủ thuật lấy bỏ huyết khối là một kỹ thuật phụ thuộc thời gian nên người nhà của bệnh nhân thường không sẵn sàng để cung cấp đầy đủ tiền sử bệnh tật, và bệnh nhân bị suy giảm tri giác không thể trả lời các câu hỏi sàng lọc, nên đối với những trường hợp chưa rõ nhiễm virus hay không nên được xử lý như bệnh nhân có nguy cơ cao dương tính với COVID-19.
Một số chiến lược bổ sung sau thủ thuật lấy bỏ huyết khối có thể được xem xét để hỗ trợ và tối đa hóa công việc chăm sóc cho tất cả bệnh nhân trong bối cảnh quá tải ở khoa ICU, và đồng thời giảm nguy cơ cho nhân viên y tế.
Có thể sẽ không có đủ giường ICU trong các vùng dịch có tỷ lệ nhiễm COVID-19 cao, nên một khi tình trạng nhiễm COVID đã được xác định và bệnh nhân được rút nội khí quản (nếu cần thiết), nên chuyển bệnh nhân hậu thủ thuật không biến chứng ra khỏi ICU càng sớm càng tốt. Sau đó, nguyên nhân đột quỵ, đánh giá dự phòng và áp dụng các quy trình tích cực nhưng an toàn để phục hồi bệnh nhân sau thủ thuật (phác đồ chăm sóc tích cực / liệu pháp xuống thang) có thể được thực hiện ở các khu điều trị nội trú khác để tối đa hóa công suất giường IC
Nguồn: suckhoedoisong.vn